|
Post by GH. Phạm Hùng on Oct 1, 2014 19:25:54 GMT -8
Academic Dean/G.H.
Xin Quý Giáo Sư và Sinh Viên hãy góp phần tôn vinh Chúa qua những sáng tác mới tại đây.
|
|
|
Post by SV. ÂU ĐẶNG QUÝ on Oct 3, 2014 23:56:48 GMT -8
Thưa quý Giáo sư cùng toàn thể các anh chị em trong tình yêu của Chúa! Cuối tháng 10 này, Ban thanh niên chúng tôi có tổ chức một buổi truyền giảng cho lứa tuổi thanh thiếu niên! Trong nội dung chương trình, chúng tôi muốn góp phần tôn vinh Chúa qua một vở kịch, nhưng trong Ban thanh niên chúng tôi lại không có người có khả năng viết kịch. Tôi rất mong rằng: a/c em trong trường sẽ giúp đỡ BTN chúng tôi bằng cách: Ai có ơn sáng tác thì sáng tác góp phần với chúng tôi trong buổi truyền giảng Ai có dữ liệu hoặc vở kịch có sẵn thì vui lòng gửi về Email audangquy@gmail.com Chủ đề của buổi truyền giảng là: ÁNH SÁNG, Câu gốc: Ê-sai 60:1 Xin chân thành cảm ơn!
|
|
|
Post by SV. LÊ T. LỆ QUYÊN on Oct 4, 2014 5:40:23 GMT -8
Thưa quý Giáo sư cùng toàn thể các anh chị em trong tình yêu của Chúa! Cuối tháng 10 này, Ban thanh niên chúng tôi có tổ chức một buổi truyền giảng cho lứa tuổi thanh thiếu niên! Trong nội dung chương trình, chúng tôi muốn góp phần tôn vinh Chúa qua một vở kịch, nhưng trong Ban thanh niên chúng tôi lại không có người có khả năng viết kịch. Tôi rất mong rằng: a/c em trong trường sẽ giúp đỡ BTN chúng tôi bằng cách: Ai có ơn sáng tác thì sáng tác góp phần với chúng tôi trong buổi truyền giảng Ai có dữ liệu hoặc vở kịch có sẵn thì vui lòng gửi về Email audangquy@gmail.com Chủ đề của buổi truyền giảng là: ÁNH SÁNG, Câu gốc: Ê-sai 60:1 Xin chân thành cảm ơn! Chào bạn Quý, Mình có lưu giữ một số kịch bản sau, bạn xem thử đã có chưa nhé, nếu chưa Q sẽ gởi cho bạn: 1. Gánh nặng 2. Món quà tình yêu 3. Nhà thông thái thứ tư 4. Chú bé gõ trống 5. Món quà để nhận, món quà để cho 6. Cửa tiệm đổi đời 7. Tình yêu và thù hận Trong Chúa. LQ
|
|
|
Post by GH. Phạm Hùng on Oct 4, 2014 6:10:09 GMT -8
Academic Dean/G.H.
Các bạn sinh viên lưu ý! Các bạn không được dùng Diễn Dàn này để kêu gọi "riêng tư" mà phải đóng góp cho diễn Diễn Đàn ngày một phong phú. Sau khi đã đóng góp cho Diễn Đàn thì mọi tác phảm sẽ thuộc về "cộng đồng", lúc đó các bạn có thể tùy nghi sử dụng. Cảm ơn các bạn.
|
|
|
Post by SV. ÂU ĐẶNG QUÝ on Oct 4, 2014 7:09:18 GMT -8
Chào bạn Quý, Mình có lưu giữ một số kịch bản sau, bạn xem thử đã có chưa nhé, nếu chưa Q sẽ gởi cho bạn: 1. Gánh nặng 2. Món quà tình yêu 3. Nhà thông thái thứ tư 4. Chú bé gõ trống 5. Món quà để nhận, món quà để cho 6. Cửa tiệm đổi đời 7. Tình yêu và thù hận Trong Chúa. LQ Cảm ơn sv Lê Quyên đã giúp đỡ, nhưng Lệ Quyên có thể gửi lên diễn đàn của trường để mình cùng mọi người tham khảo được không? Vì những vở kịch này Đăng Quý chưa có! Xin cảm ơn!
|
|
|
Post by SV. ÂU ĐẶNG QUÝ on Oct 4, 2014 7:10:54 GMT -8
Academic Dean/G.H. Các bạn sinh viên lưu ý! Các bạn không được dùng Diễn Dàn này để kêu gọi "riêng tư" mà phải đóng góp cho diễn Diễn Đàn ngày một phong phú. Sau khi đã đóng góp cho Diễn Đàn thì mọi tác phảm sẽ thuộc về "cộng đồng", lúc đó các bạn có thể tùy nghi sử dụng. Cảm ơn các bạn.
Cảm ơn Giáo sư đã nhắc nhở!
|
|
|
Post by SV. TRẦN T. TUYẾT SƯƠNG on Oct 14, 2014 18:46:03 GMT -8
. Em viết tiểu phẩm này để đóng trong 10 phút, nhưng điều em muốn gửi đến mọi người là mọi sự trong đời sống mình cần có sự cầu nguyện và trao hết cho Ngài Ngài sẽ giuýp chúng ta. Tiểu phẩm : Hôn nhân bền vững Đã 10 năm trôi qua từ khi gia đình anh chị Ngọc,Thủy chuyển về sinh sống tại xóm củi, với ao ước của chị là sẽ làm chứng về Chúa cho những người ở đây. Nhưng khổ thay là đời sống của chồng chị chưa kinh nghiệm nhiều về Chúa nên sự khao khát đem tin lành cho người xung quanh đối với chị còn rất nhiều trở lực. Cảnh I Vợ: ( chuẩn bị bữa cơm trưa) Chồng: (đi làm về, thở dài) mệt quá , thời tiếc nóng nực mà còn cúp điện nữa bực mình ghê. Vợ ( đi ra) anh về rồi hả uống tí nước đi cho đỡ mệt. Chồng: có cơm chưa hả em, anh đói bụng lắm rồi nè Vợ: dạ có rồi anh anh ngồi nghỉ khỏe chút đi rồi mình xuống ăn cơm, Chồng: ủa con đâu rồi em? Vợ: hôm nay thứ bảy nghỉ em cho con về nhà bà nội chơi rồi, vả lại chiều nay em định ừm….ừm… Chồng: em định làm gì? Vợ: em định đi chứng đạo với mấy chị trong trung niên Chồng ( thở dài) đi cái gì mà đi chiều nay anh có mời mấy người bạn làm việc với anh hôm nay về nhà mình ăn cơm đó, em ở nhà mà lo chuẩn bị cơm nước đi chứ đi đâu. Vợ: (buồn) thôi xuống ăn cơm đi anh. Anh nè sáng nay anh chị Hùng gần nhà mình đó không biết có chuyện gì mà ảnh chỉ cãi lộn và đập chén bát um xùm. Chồng: vậy hả, có ai vô can họ không? Vợ: ưm…ưm có chứ nhưng không được mà còn bị họ nói lại người đó nữa. Chồng: vậy hả, tội nghiệp người đó quá ha. Vợ: thật em cảm ơn Chúa là mình sống với nhau trong tình yêu của Chúa và ngày nào em cũng cầu nguyện Chúa gìn giữ gia đình và mọi sinh hoạt của mình. Chồng: ừ thôi ăn cơm đi Cho dù mỗi khi chị nói gì đến việc chứng đạo làm chồng chị cảm thấy khó chịu nhưng chị vẫn khuyên anh dần dần cũng như những mối quan hệ bạn bè của anh bên ngoải. tối nào chị cũng cầu nguyện xin Chúa đổi mới tâm trí anh và lối sống của anh. Buổi tối hôm đó anh dẫn bạn bè về ăn cơm rồi đi uống nước với họ, còn chị thì lo dọn dẹp chén bát và đến với Chúa như mọi ngày. Cảnh II: Vợ; (Đọc Kinh Thánh và Cầu Nguyện )Kính lạy Chúa của con, con cảm ơn Chúa đã cho gia đình con một ngày trong sự bình an, cũng cảm ơn Cha đã cho gia đình con có cùng niềm tin trong Chúa, ( người chồng về và tình cờ nghe được lời cầu nguyện của vợ mình) và Ngài cho con có một người chồng hết mực thương yêu con. Nhưng điều đó đối với con chưa đủ, Cha biết điều khát khao của con là đem tình yêu của Chúa cho người khác nữa, đó là ao ước của con mười mấy năm nay con chưa làm được, vì chồng con không muốn con tham gia vào công tác chứng đạo, vì không muốn gia đình mất đi sự vui vẻ và ấm cúng nên con đã chịu đựng sự chống đối đó của chồng con, và con chỉ biết kêu xin Ngài thay đổi suy nghỉ của anh. Sáng nay con đã khuyên anh chị Hùng nhưng chị đã la lại con vì chồng con cũng có thỉnh thoảng uống rượu với anh Hùng. Chúa ơi điều đó làm con đau đớn biết chừng nào, và anh cứ như vậy thì làm sao con nói về tình yêu của Chúa được chứ. Cha ơi xin giúp con, con giao hết cho Ngài trong danh Chúa Gie-xu Amen! Khi nghe được những lời cầu nguyện đó của vợ, Chúa cũng đã thay đổi suy nghĩ anh từ lúc đó. Vợ ( đứng dậy bước ra) ủa anh về hồi nào vậy. Chồng; ừ anh về nảy giờ rồi, và thật sự bây giờ anh mới cảm ơn Chúa biết chừng nào vì Chúa ban cho anh có một người vợ như em, Chúa đã cho anh thấy được tấm lòng yêu mến Chúa của em như thế nào và những sự chịu đựng của em trong suốt mười năm qua Anh thật thiếu trách nhiệm với Chúa và với em. Anh cũng là người cản trở cho công việc của Chúa qua đời sống và suy nghĩ của anh, Vợ: sao hôm nay anh nói như vậy Chồng: nảy giờ anh đã nghe em cầu nguyện với Chúa và những lời cầu nguyện đó giống như lời Chúa đang trách anh và đang khuyên dạy ạnh. Vợ: vậy bây giờ anh định sẽ làm gì? Chồng: anh sẽ xin Chúa cho anh có sự mạnh dạn, sức khỏe và trí khôn để nói về tình yêu của Chúa cho những người đang sống xung quanh chúng ta đây. Vợ: vậy thì chiều thứ bảy tới vợ chồng mình cùng lên nhà thờ để đi chứng đạo với ban trung niên anh nghe. Chồng: ừ chiều hôm đó anh sẽ đi làm về sớm rồi mình cùng đi. Kể từ ngày hôm đó gia đình anh cứ sốt sắng làm chứng về Chúa cho mọi người và có nhiều người trở lại tin Chúa vì thấy được gia đình của anh chị thật sự hạnh phúc và vui vẻ khi mọi người trong nhà đều đặt để Chúa làm Chủ gia đình mình. SV TTTS
|
|
|
Post by SV. PHẠM THANH BÌNH-JOSHEP on Oct 30, 2015 15:50:36 GMT -8
TINH THẦN HẦU VIỆC CHÚA (Công-vụ 9: 36-43)
Nhân vật: - Ta-bi-tha - Phụ nữ hàng xóm ngoại đạo - Nữ tín hữu bạn thân - Nữ tín hữu bịnh hoạn - Em gái bịnh nhân - Người hàng xóm (Ta-bi-tha từng nấu cháo đem qua nhà) - Phi-e-rơ (Phụ nữ hoá trang cho giống đàn ông) Dụng cụ: 1 cái bàn, 1 cái giường, 2 cái ghế, bình nước trà và 4 cái tách, một số quần áo cũ .v.v...
Y phục: Nếu hoá trang theo y phục của người Do Thái càng tốt.
CẢNH MỘT: Bà Ta-bi-tha đang ngồi cặm cụi khâu cái áo rách, bất ngờ có tiếng gõ cửa. Từ bên ngoài tiếng người phụ nữa gọi vọng vào: - Chị Đô-ca có ở nhà không? - Ai đó? Bà Ta-bi-tha dừng tay nhìn ra cửa. Người hàng xóm nhanh nhẹn bước vào đon đả chào: - Chị Đô-ca khoẻ không? - Nhờ Chúa ban tôi vẫn khoẻ luôn. Bà Ta-bi-tha nhìn người hàng xóm cười. Người hàng xóm kéo ghế lại ngồi gần bà Ta-bi-tha nói: - Tôi phục chị luôn, nghèo rớt mồng tơi nhưng chẳng nghe chị than thở tiếng nào, hễ mở miệng là một cảm ơn Chúa, hai cảm ơn Chúa, y như ổng là thần hộ mệnh của chị vậy. - Hơn thế nữa chị à, Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhờ Chúa mà tôi mới được ngày hôm nay. Bà Ta-bi-tha mỉm cười đáp lại. Bất chợt, người hàng xóm hỏi: - Chị làm gì mà lúc nào qua thăm tôi cũng thấy chị không vá quần áo rách thì đan áo len, mũ len? Vẫn chăm chú với công việc, bà Ta-bi-tha đáp: - Những lúc rãnh rỗi tôi đi xin quần áo cũ của tín hữu, hoặc những cuộn len thừa, rồi sửa lại, hoặc đan áo len để giúp mấy bà con nghèo trong xóm. Người hàng xóm cười thông cảm: - Người giàu thì lá lành đùm lá rách, còn chị thì lá rách đùm lá nát. Bà Ta-bi-tha buông cái áo xuống bàn, với tay lấy bình trà rót nước mời người hàng xóm: - Xin lỗi chị, mê nói chuyện quên mời chị uống nước. Hớp ngụm nước trà xong, đặt ly nước xuống bàn, bà Ta-bi-tha nhìn người hàng xóm nói chậm rãi: - Mặc dầu tôi không giàu có gì, nhưng nhìn lại Chúa cho đủ cơm ngày ba bữa, có mái nhà che nắng che mưa, quần áo đủ dùng là phước rồi. Trong khi đó, bao nhiêu người bên cạnh quần áo không đủ bận, đó là lý do tôi muốn làm một điều gì đó cho bà con lối xóm; đây chính là điều Chúa muốn tôi làm. Đối với tôi, giúp đỡ tha nhân cũng chính là hầu việc Chúa vậy. Người hàng xóm nắm lấy bàn tay gầy của bà Ta-bi-tha cảm động nói: - Tôi chẳng phải tín hữu như chị, nhưng những việc làm đầy ý nghĩa của chị làm tôi cảm động. Tôi nghĩ rằng, tôi cũng sẽ noi gương chị để làm điều gì đó tốt lành cho bà con lối xóm của mình. Hy vọng rằng, một ngày nào đó tôi cũng sẽ tin Chúa như chị, để có được sự vui vẻ, bình an và thoả lòng như chị đang có. Nói xong, người phụ nữ đứng lên chào bà Ta-bi-tha: - Nhớ chị sang thăm một chút, thôi tôi chào chị nhé. Trước khi bước hẳn ra cửa, người phụ nữ còn quay lại nói: - Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước trên chị. - Nguyện Chúa cũng luôn ban phước trên gia đình chị. Bà Ta-bi-tha đáp lại chân thành.
CẢNH HAI: (Khung cảnh như cũ, tại căn nhà của Ta-bi-tha, với cái bàn, ấm nước .v.v...)
Từ bên ngoài Ta-bi-tha bước vào nhà, vội vả đi tới bàn nước, lấy bình trà đổ nước vào ly, vừa đưa ly nước lên miệng chưa kịp uống, chợt có tiếng gõ cửa. Ta-bi-tha đặt tách nước xuống bàn. - Chị Ta-bi-tha có ở nhà không? - Mời vào. Bà Ta-bi-tha đưa mắt nhìn ra cửa. - Người nữ tín hữu bước vào vui vẻ hỏi: - Chị đi đâu hồi sáng giờ tôi tới hai lần vẫn thấy cửa đóng, cài then? - À, tôi nấu nồi cháo đem qua chị hàng xóm. Vẫn giọng nói trầm trầm, đầy thương cảm, bà Ta-bi-tha nói tiếp: - Tội nghiệp chị này, goá chồng từ trẻ, giờ bị bịnh, không con cháu, không người thân bên cạnh, nên hàng ngày tôi dành chút thì giờ nấu ít thức ăn qua thăm chị ấy, sẵn dịp đem vài bộ quần áo tôi mới xin được thay cho chị. Mỗi khi tôi làm việc này, tôi cảm thấy như đang làm cho chính mình. Người tín hữu kéo ghế ngồi bên cạnh, nhìn bà Ta-bi-tha tỏ vẻ đồng tình: - Hầu việc Chúa và yêu Chúa vẫn không trọn vẹn ý nghĩa, nếu chúng ta không thật sự yêu và nghĩ đến những người nghèo khổ, cần sự giúp đỡ đang sống quanh chúng ta. Vừa nhắp tách trà, bà Ta-bi-tha vừa hỏi người bạn mình: - Chị tới nhà tôi có việc gì không? - Tôi vừa nghe tin bà Tư trong Hội Thánh mới bị té hồi hôm, nên rủ chị sang thăm và cầu nguyện. - Vậy thì mình đi ngay đi. Bà Ta-bi-tha tỏ vẻ sốt sắng. Người nữ tín hữu ái ngại nói: - Chị vừa đi về còn mệt mà. Bà Ta-bi-tha cười: - Mệt gì mà mệt. Chúa Jesus khi xưa mỗi lần giúp cho bất cứ người nào, Ngài có bao giờ nói mệt đâu. - Vậy thì mình đi nhé! Bà Tư sẽ vui lắm khi có người đến thăm. Khi cả hai vừa bước ra cửa, bà Ta-bi-tha như chợt nhớ ra điều gì vội vàng quay vào. Người tín hữu liền hỏi: - Quên gì hả chị? - À, tôi nhớ có hứa đan tặng bà Tư áo ấm cho mùa Đông sắp tới, nên lấy đem đi luôn thể, sẵn dịp đem tặng bà chai dầu nóng, thuốc gia truyền của gia đình cho bà bóp đỡ đau chân. Người tín hữu cười vui vẻ: - Chị Ta-bi-tha này tính tình chu đáo quá. Ban phụ nữ ai nấy đều như chị thì thật phước cho Hội Thánh. Chúa sẽ ban phước lại cho chị bội phần. Hai người vừa đi khuất sau tấm màn, có tiếng hát vang lên nhẹ nhàng lời bài hát 'Dâng Chúa Thuỷ Chung': 'Nguyện đời con dâng Chúa thủy chung, duy mong ước Jesus đẹp lòng. Này bàn tay con quyết hiến lai, siêng năng giúp mỗi công việc Ngài. Trọn đời con nguyền cung hiến, để chuyên tâm lo việc thượng thiên.
CẢNH BA: (Khung cảnh như cũ, thêm cái giường. Trên giường có người bịnh đang nằm rên, tỏ vẻ đau đớn)
Chưa bước vô nhà đã nghe giọng bà Ta-bi-tha vang lên: - Chị Tư khoẻ chưa? Bà Tư kêu em gái đang đứng bên giường: - Em giúp đỡ chị dậy, có chị Ta-bi-tha đến thăm. Vừa ngồi dậy, bà Ta-bi-tha và người bạn tín hữu bước vào đi đến ngay bên giường, cả hai vồn vả hỏi một lượt: - Chị đã thấy bớt đau tí nào chưa? Bà Tư khẽ rên nói: - Cảm ơn Chúa cho giờ này bớt đau một tí, suốt đêm hôm qua tôi đau quá ngủ không được, nằm chỉ biết cầu nguyện mãi. Tôi chỉ sợ chân này bị gì tôi mệt lắm, ai lo cho chồng con đây? Người em gái xen vào nói: - Em đã nói với chị ấy rồi, mình có Chúa đừng lo lắng lắm; Chúa là Đấng lo toan mọi việc cho các con cái yêu dấu của Ngài mà. Bà Ta-bi-tha nắm lấy tay an ủi, trong khi đó người nữ tín hữu kia xoa nhẹ chân cho bà Tư: - Chúa thương chị nên tuổi lớn như chị bị té vẫn không sao là cảm ơn Chúa rồi. Chị ráng giữ gì sức khoẻ rồi chị em mình tiếp tục góp phần hầu việc Chúa trong Hội Thánh nữa. Bà Tư cảm động nói: - Hai chị đến thăm khiến tôi cảm thấy được khoẻ hẳn ra. Tình anh chị em trong Chúa sống với tinh thần vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc thật qúi quá. Đúng là, bằng hữu thương mến nhau luôn luôn; và anh em sanh ra để giúp đỡ trong lúc hoạn nạn (Châm-ngôn 17: 17) Bà Ta-bi-tha quay sang người tín hữu đi cùng nói: - Mời chị Sáu cầu nguyện cho bà Tư trước khi mình xin phép đi về. Bà Tư vẫn ngồi trên giường, người em gái ngồi bên cạnh nắm tay chị, bà Ta-bi-tha và người nữ tín hữu đứng hai bên, tay đặt lên vai bà Tư. Người tín hữu cầu nguyện ngắn gọn nhưng tha thiết: - 'Lạy Chúa! Chúng con dâng bà Tư lên Ngài trong giờ này. Cầu xin Ngài thấy nỗi đau đớn của bà và chữa lành cách đặt biệt theo như đức tin chúng con đặt để nơi Ngài, hầu cho chúng con có cớ làm chứng, và ngợi khen quyền năng của Ngài giữa mọi người... A-men!' Bà Ta-bi-tha trao áo len và chai dầu nóng vào tay bà Tư nói: - Có quà cho chị nè. Áo ấm để bận cho mùa đông sắp tới, còn chai dầu nóng chị nhớ thoa thường xuyên nhé. Bà Tư xúc động kéo bà Ta-bi-tha tới gần và ôm chặt, trong khi đó người em gái của bà Tư cũng tới gần nắm lấy tay của người nữ tín hữu với vẻ biết ơn. Bà Tư cất giọng nghẹn ngào nói: - Các chị là những thiên sứ Chúa gởi đến thăm viếng và an ủi tôi. Nguyện Chúa tiếp tục ban phước và thêm sức trên hai chị. (Nếu có tấm màn, thì kéo màn sau cảnh này. Nếu không có màn, có thể tắt đèn càng tốt, đồng thời có tiếng đàn Piano nhẹ nhàng vang lên, tiếp tục kéo dài cho đến màn kế tiếp bắt đầu).
CẢNH CUỐI: (Khung cảnh như cũ. Trên giường, bà Ta-bi-tha đang nằm yên bất động. Trong nhà gồm có: Phụ nữ hàng xóm ngoại đạo (người diễn đầu tiên), nữ tín hữu bịnh hoạn, cô em gái bịnh nhân và người hàng xóm(nghèo) mà Ta-bi-tha từng nấu cháo đem qua nhà (người này màn này mới có mặt); một vài người đang khóc nhẹ nhàng (dành cho những ai có thể khóc được), những người khác đang ngồi yên lặng vẻ buồn rầu. * Từ bên ngoài, người tín hữu bạn thân (người từng cùng Ta-bi-tha đi thăm viếng tín hữu bịnh) cùng Phi-e-rơ bước vào nhà. Tiếng khóc chợt im bặt, tất cả mọi cặp mắt đều hướng về phía Phi-e-rơ. * Khoảnh khắt ngắn ngủi qua đi (Khoảng 30 giây), hai người (trong đó có vai người phụ nữ ngoại đạo và người hàng xóm nghèo) chợt đứng dậy, đến gần Phi-e-rơ và đưa những quần áo mà bà Ta-bi-tha đã từng tặng khi còn sống. - Ngày nào tôi bị bịnh, chị ấy không ngại thời gian và khó khăn, luôn đến thăm và lo cho tôi từng chén cháo, vậy mà giờ này không còn nữa. Người hàng xóm nghèo nói xong oà khóc nức nở. Người hàng xóm ngoại đạo cũng xen vào, vừa thổn thức nói vừa lấy vạt áo lau nước mắt: - Chị Đô-ca cũng giúp tôi quần áo, thức ăn. Chị cũng làm chứng về Chúa Cứu Thế Jesus cho tôi nữa. Tôi chưa kịp tin Chúa thì chị đã về với Chúa. Tiếc rằng, chị Đô-ca không thấy được ngày tôi tin Chúa. * Phi-e-rơ nắm lấy tất cả quần áo đó vừa xem, vừa đưa tay dụi mắt (vì cảm động khóc). * Sau đó, Phi-e-rơ trả lại áo quần cho hai người này và xoay sang những người có mặt trong phòng nói: Quý bà con vui lòng ra bên ngoài để tôi cầu nguyện được yên tĩnh. * Mọi người dồn vào một góc phòng, người thì ngồi bệt xuống nền nhà, người thì quì, nhưng đều hướng về phía giường của Ta-bi-tha, đôi tay chấp lại vẻ van nài, đồng lòng, hiệp ý với Phi-e-rơ cầu nguyện tha thiết. * Trong khi đó, Phi-e-rơ đến quì gối bên giường Ta-bi-tha cúi đầu cầu nguyện (không có lời, nhưng có tiếng nhạc cầu nguyện đệm thật nhẹ nhàng) * (Khoảng 1 phút) Phi-e-rơ ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào bà Ta-bi-tha và nói: - Hỡi Ta-bi-tha hãy chờ dậy!. * Phi-e-rơ vừa dứt lời, bà Ta-bi-tha liền mở mắt (ánh nhìn dịu dàng xen lẫn chút ngạc nhiên) nhìn chăm Phi-e-rơ. Phi-e-rơ đỡ Ta-bi-tha đứng dậy rồi quay sang các phụ nữ đang ở trong phòng nói: - Các chị em hãy đến đây. Cảm ơn Chúa đã cứu bà Ta-bi-tha sống lại rồi. * Mọi người liền chạy đến và quây quần xung quanh bà Ta-bi-tha, miệng không ngớt nói lớn 'Ha-lê-lu-gia, ha-lê-lu-gia!. Người khác thì nắm lấy tay bà, riêng người nữ tín hữu từng đi thăm viếng với bà Ta-bi-tha thì ôm chầm lấy bà khóc mừng rỡ. Trong khi đó, Phi-e-rơ lẳng lặng rời khỏi phòng. (Cảnh Phi-e-rơ rời khỏi phòng phải diễn thật hay, điều này nói lên sự khiêm nhường của ông) ./.
Joseph Phạm Chicago, July 29, 2015
(Vở kịch này đã được Giáo sư Huỳnh Thị Thanh và Ban Phụ Nữ Hội Thánh Tam Kỳ, diễn nhân ngày Hội Đồng Phụ Nữ, được tổ chức tại Hội Thánh Hội An 2015)
|
|
|
Post by SV. PHẠM THANH BÌNH-JOSHEP on Oct 30, 2015 15:55:14 GMT -8
TẤM LÒNG CAO CẢ
Nhân vật: - Ông Thanh: Chồng bà Hương - Bà Hương: Vợ ông Thanh - Nam: Con trai lớn của ông bà Thanh-Hương - Thắng: Con trai út của ông bà Thanh-Hương - Phương: Vợ của Nam - Bác sĩ
Dụng cụ: - Cái bàn + 2 cái ghế + bình trà & 4 cái tách (Cảnh 1) - Bộ ghế sô-pha, gồm cái bàn, 1 ghế dài, 2 ghế đơn (Cảnh 2) - Bộ áo quần, mũ, ống nghe, khăn bịt miệng, đôi găng tay của bác sĩ và tấm bảng (hình bên dưới) (Cảnh 3) PHÒNG ĐỢI - Cái giường, 2 cái ghế, cái bàn, quạt giấy, bịch trái cây (Cảnh cuối)
MÀN 1:
Vừa đi dạy học về, thấy vợ ngồi thừ người bên bàn ăn, ông Thanh vội vàng dựng chiếc xe máy ngay cửa, chạy vào ngồi bên vợ vồn vả hỏi, vẻ lo lắng: - Bà có chuyện gì lo lắng gì nữa đây? Ngước mặt nhìn chồng, bà Hương bực bội nói: - Ông nghĩ sao không bực. Hồi nãy thằng Nam dẫn về con Phương nào đó ở xóm trên và giới thiệu là bạn gái của nó. Tôi tra hỏi một hồi mới biết rằng cha mẹ cô đó chỉ là nông dân, còn bản thân cô ta thì làm công nhân trong hãng may mặc. Nghĩ một chút như để lấy sức, bà Hương nói tiếp: - Với một gia đình như vậy, bản thân cũng chẳng khá hơn tí nào, thì làm sao xứng với thằng Nam nhà mình? Ông Thanh vỗ vai vợ nhỏ nhẹ nói: - Bà còn nhớ khi xưa, tôi cũng đã hí hửng dẫn bà về giới thiệu ba mẹ. Mẹ tui cũng từng có suy nghĩ giống như bà giờ này, may mà ba tui tôn trọng sự chọn lựa của con cái, nên tui mới cưới được bà và sống hạnh phúc đến ngày hôm nay. Nếu ngày trước tui phải nghe lời mẹ lập gia đình với cô Mai, con gái ông chủ của tui, có thể giờ này mỗi người mỗi ngã. Bà biết mà, có thật sự yêu nhau mới có thể ăn đời sống kiếp với nhau được. Nếu vợ chồng yêu thương nhau, thì việc làm ăn khá giả chỉ là thời gian. Ông bà mình cũng nói 'Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn'. Hơn nữa, con trai mình sống với vợ nó, chứ có phải mình đâu. Vẫn chưa hết bực mình, bà Hương nói tiếp: - Ông nói vậy tôi cũng đồng ý, nhưng đàng này tui còn được biết gia đình con nhỏ này theo đạo Tin Lành, còn dụ thằng Nam vô đạo nữa, hèn chi thời gian gần đây đêm nào trước khi ngủ tôi cũng thấy thằng Nam thường đọc quyển gì đó. Khi nó đưa con kia đi về, tôi chạy lên phòng thì phát hiện quyển sách đó là quyển Kinh Thánh. Ông cũng biết rồi đó, cái đạo chi dạy con bất hiếu, bỏ ông bỏ bà. Rồi nay mai tui và ông về với ông bà, ai lo cúng cho tui và ông đây? Ông Thanh cười: - Bà thật là người lo xa. Nếu là người mê tín thì cho rằng bà xui quẩy; đang sống sờ sờ mạnh khoẻ tự nhiên nói chi chuyện chết chẳng thích thú tí nào. Sống trên đời bao nhiêu năm mà bà chẳng hiểu gì cả. Con cái hiếu thảo là khi cha mẹ còn sống, lo chăm sóc chu đáo. Chứ đợi cha mẹ chết đi rồi cúng kiếng, làm văn tế ruồi à? - Nhưng tui không thích có con dâu theo đạo Tin Lành, bà con lối xóm lại tiếng ra tiếng vào. Ông Thanh ôn tồn giãi thích: - Bà sợ chi miệng chê khen của thế gian. Quan trọng là làm sao gia đình mình, vợ chồng con cái sống thuận hòa, kính trên nhường dưới. Bước ra đường ngẩng nhìn trời không thẹn, nhìn xuống đất không xấu hổ, nhìn mọi người tự tin bước tới là được rồi. Bà Hương bướng bỉnh cố nói: - Nhưng tôi đã nói là tôi không thích có con dâu theo đạo Tin Lành ông hiểu không? Lần này ông Thanh cười lớn thành tiếng: - Tưởng chuyện gì lớn, nếu có con dâu đạo Tin Lành càng tốt. Đã bao nhiêu năm đi dạy học, tui chưa bao giờ thấy học sinh Tin Lành vi phạm kỷ luật cả. Trong trường lễ phép với thấy cô, nhường nhịn bạn bè, ra đường lễ phép với mọi người; xã hội này mà toàn tín hữu Tin Lành tôi nghĩ rằng ban đêm đi ngủ mình khỏi cần khóa cửa trong, cửa ngoài cho mệt. Rót trà ra 2 tách, mời vợ một tách, bà Hương đưa lên miệng uống và nói: - Cảm ơn! Uống hớp nước ông Thanh nói tiếp: - Bà thấy rồi đó, đạo Phật mà gia đình mình đang theo cũng đến từ nước ngoài. Điều quan trọng, tui thấy ba đời giòng họ hai bên cũng chẳng được gì khi đặt hết niềm tin vào tôn giáo của mình. Nhiều người bà con mình nghèo, sau nhiều năm làm lụng bây giờ họ cũng chẳng khá hơn gì cả, tiếp tục khổ. Trong khi đó, mấy gia đình tín hữu Tin Lành trong xóm mình, mặc dầu nhiều người cũng chẳng giàu có gì, nhưng tui thấy cuộc sống họ sao hạnh phúc quá, thấy mà ham. Hàng ngày làm việc lam lũ sao không biết, nhưng cứ mỗi sáng Chúa Nhật, cả gia đình vợ chồng, con cái lại bận áo quần đẹp đến nhà thờ; rồi cũng ngày ba bữa chẳng thiếu thốn gì. Còn mình thì làm 6 ngày không đủ, làm luôn ngày Chúa Nhật cũng ba bữa một ngày, chẳng dư dật gì hơn. Chợt nhớ ra điều gì, ông Thanh liền nói: - Bà có thấy Nam con mình thời gian gần đây được đổi mới hay không? Trước đây sau khi tan ca đêm nào cũng la cà quán cà phê đến tối mới về đến nhà. Còn thời gian gần đây tui thấy, đêm nào sau khi tan công việc thằng Nam cũng vội vàng về nhà, còn cặm cụi học hành gì đó. Tui nghĩ có lẽ nhờ nó theo đạo Tin Lành đó bà. Như vậy, thay vì trách móc, mình còn phải cảm ơn cô kia nữa kìa. Có vẻ xuôi lòng với những gì chồng đã nói, khuôn mặt bà Hương dịu lại, bà đứng dậy đi vào nhà bếp, vừa đi vừa nói: - Tui không biết, tùy ông lo liệu, có gì sau này đừng đổi thừa tui. Tui đi dọn cơm đây. Nhìn theo bóng dáng vợ đi khuất vào nhà bếp, ông Thanh ngồi mỉm cười, lẩm bẩm một mình: - Đúng là phụ nữ, thấy mà thương. Tính tình như thời tiết 4 mùa, lúc bão, lúc mưa, khi âm u, lúc tạnh ráo, nhưng thiếu phụ nữ chắc đàn ông trên thế gian như mình thà chết sướng hơn. ***** MÀN 2: Hai năm sau
Hai vợ chồng ông bà Thanh đang ngồi đọc báo (cả hai đang ngồi ghế sô-pha lớn), chợt nghe tiếng động bên ngoài, bà Hương hướng ra ngoài cửa lên tiếng: - Ai đang làm gì ngoài đó? Không một tiếng trả lời, Thắng từ ngoài cửa bước vào với dáng đi loạng choạng, nghiêng người bên này, ngã qua bên kia, miệng ú ớ nói gì không rõ. - Ơ... ơ... con Thắng, có gì không con? Vừa nói dứt câu, bà Hương vội vàng nhào ra khỏi ghế chạy tới đỡ Thắng, nhưng không kịp, Thắng say quá ngã té xuống sàn nhà, bà Hương hoảng hốt gọi chồng: - Ông tới phụ tui một tay đỡ con lên ghế. - Thật là con với cái, say sưa tối ngày chẳng ra thể thống gì cả. Nói thì nói, nhưng ông Thanh cũng mau mắn chạy tới phụ vợ đỡ Thắng lên. Vừa lúc đó, vợ chồng Nam-Phương vui vẻ cặp tay nhau bước vào, hai vợ chồng đồng loạt lên tiếng: - Thưa ba má, chúng con tới thăm ba má nè. Ông Thanh ngẩng đầu lên nhìn nói: - Chào hai con tới thăm ba má. Chợt nhìn thấy Thắng đang nằm sóng soài dưới sàn nhà, vợ chồng Nam nhanh chóng chạy tới cạnh bên cạnh ông bà Thanh: - Ba mẹ để đó chúng con đỡ em lên cho. Nhìn vợ chồng Nam đưa được Thắng lên ngồi trên ghế (ghế sô-pha lớn. Vợ chồng Nam ngồi hai bên, Thắng ngồi ở giữa, đã tỉnh táo nhiều. Lúc này ông bà Thanh mỗi người ngồi mỗi ghế lẻ, đối diện ), ôngThanh lắc đầu ngao ngán, miệng lầm bầm: - Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Có lẽ nhận ra được sai trái của mình khi chìu chuộng con quá mức đến nỗi Thắng sinh hư như ngày hôm nay, bà Hương chỉ biết nói gỡ gạc cho có lệ: - Đàn ông mấy người chỉ giỏi đổ thừa. Ngồi bên cạnh em, Nam vỗ vai Thắng khuyên: - Em đã hai mươi mấy tuổi đầu rồi, bỏ bớt rượu chè với bạn bè đi. Thắng lè nhè: - Anh tưởng dễ như anh nghĩ hả? Phương xen vào: Thật sự chị biết có một Đấng có thể giúp em cai được rượu như đã từng giúp anh Nam. Thắng tỏ vẻ khó chịu: - Thôi chị ơi, đừng cứ đem ông Chúa Giê-xu nào đó ra nói mãi với em, em không tin đâu. Vẫn giọng nhỏ nhẹ: - Anh chị vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho ba má và em có ngày sẽ tiếp nhận làm Cứu Chúa đời mình; chỉ có vậy cuộc đời gia đình mình sẽ được Chúa ban phước. Ngồi yên hồi nãy giờ, giờ ông Thanh mới lên tiếng: - Thắng à, con cũng nên noi gương anh chăm lo học hành, từ bỏ ăn chơi đàn đúm với mấy đứa bạn vô công rỗi nghề, chỉ biết đi quậy hàng xóm. Nếu con không chịu sửa đổi tâm tánh, có ngày sẽ mang họa. Bà Hương nhìn Nam nói: - Thôi con đưa em con vô phòng nghỉ rồi ra đây ba má muốn nói chuyện này với hai con. (Nam dìu Thắng ra phòng sau, rồi trở ra ngồi lại chổ củ, bên cạnh vợ)
Nam vừa ngồi xuống ghế, bà Hương liền lên tiếng: - Phương à, từ khi thằng Nam quen biết con, rồi hai con lập gia đình với nhau đến nay đã hơn 2 năm. Chừng ấy năm má đã tìm hiểu con thật nhiều, má thành thật công nhận con là con dâu tốt. Má tin chắc rằng, đạo Tin Lành đã ảnh hưởng tốt trên đời sống con, bằng chứng là từ khi thằng Nam yêu con, từ một người chỉ biết tụ ba, tụ năm, rượu chè với bạn bè, trở thành một người chăm lo gia đình, làm việc chăm chỉ. Ông Thanh nôn nóng cắt ngang lời vợ: - Bà nói gì nhập đề vô lẹ để các con về nghỉ ngơi ngày mai đi làm sớm. Bà Phương quay qua chồng: - Ông này, nói gì cũng từ từ chứ. Hai vợ chồng Nam-Phương cùng cười. Phương lên tiếng: - Ba cứ để má nói đến sáng vợ chồng con cũng chịu khó ngồi nghe mà. - Thôi, thôi, để má nhập đề luôn. Bà Hương mỉm cười nói tiếp: - Ba má đã bàn thảo và đi đến quyết định là nhờ hai con Chúa Nhật này dẫn ba má đi nhà thờ Tin Lành để ba má cầu nguyện tin Chúa giống như hai con. Hai con cũng nhớ cầu nguyện cho Thắng em con cũng biết hồi tâm. Bà Hương vừa dứt lời, Nam liền đi tới ôm ông Nam, còn Phương ôm bà Hương nói trong nước mắt: - Cảm ơn Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của chúng con hơn 2 năm nay. Đây là ngày vui nhất trong đời con. Bà Hương hai tay nắm hai tay Phương nói: - Xin lỗi con, trước đây má đã không nghĩ tốt về con, về đạo Tin Lành. Má cảm ơn Trời đã ban cho con làm con dâu của ba má. Bà Hương buông tay ôm choàng Phương. Ông Thanh và Nam cùng đứng dậy, ông Thanh choàng tay lên vai vợ, còn Nam đến ôm vợ mình. Cả 4 người im lặng. (Tiếng vọng bài hát: 'Con bơ vơ bước chân đi giữa sa mạc khô' vang lên nhẹ nhàng) ***** MÀN 3: Khung cảnh tại bệnh viện
Bà Hương và Phương ngồi yên lặng, lâu lâu bà Hương lấy khăn chậm mắt sụt sùi khóc, những lúc như thế, Phương nắm chặc bàn tay của bà lên tiếng an ủi: - Không sao đâu má. Chúng ta cứ tiếp tục cầu nguyện xin Chúa cứu giúp Thắng. Trong khi Nam cứ đứng yên bên cạnh vợ, ông Thanh cứ đi qua đi lại lắc đầu thở dài vẻ mệt mỏi. Bất chợt, bác sĩ mở cửa phòng đi ra, ông Thanh vội vàng chạy đến trước, Phương dìu bà Hương đứng dậy cùng với Nam chạy liền theo sau. Ông Nam hỏi: - Thưa bác sĩ, con tôi có sao không bác sĩ? Bác sĩ vừa tháo khăn bịt miệng và đôi găng tay, nhìn mọi người hỏi: - Con ông bà tên gì? - Dạ Trương Quyết Thắng. Ông Nam trả lời - Tai nạn xe cộ lần này nguyên nhân đến từ con trai ông bà và người bạn uống rượu say, không chủ động được tay lái nên đã tự động tông vào cái miểu nhỏ bên đường. Cậu bạn là người lái xe nên đã chết ngay tại chổ, con ông bà ngồi phía sau nên còn giữ được tính mạng. Tuy nhiên, tôi muốn báo một tin buồn cho ông bà, vì bị chấn động mạnh, đôi mắt của cậu Thắng... Bác sĩ nói ngập ngừng: - Đôi... đôi mắt... mắt... Bà Hương nôn nóng hỏi: - Là sao bác sĩ? Bác sĩ ngại ngùng nói: - Có lẽ sẽ mù vĩnh viễn - Ôi, Chúa ơi, xin cứu Thắng của con. Thốt ra được bao nhiêu đó, bà Hương qụi xuống khóc nức nở. Ông Thanh vội vàng đỡ vợ về chổ ngồi. Phương ngập ngừng hỏi bác sĩ: - Thưa bác sĩ, thế có cách gì chữa được đôi mắt của em cháu không? Bác sĩ thở dài: - Chỉ còn cách duy nhất, là ai đó có thể hy sinh giác mạc của mình để thay thể giác mạc của cậu ấy. Nhưng điều này phải cần được làm càng sớm càng tốt. Thời điểm để có thể phẩu thuật thay thế giác mạc được tỉ lệ thành công cao khi cậu ấy đã được hồi tỉnh, và có đủ sức khoẻ để chịu đựng được cuộc giãi phẩu. Thôi tôi xin phép đi để tiếp tục ca mổ khác. - Dạ cảm ơn bác sĩ. Vợ chồng Nam-Phương đồng loạt lên tiếng. Nhìn bác sĩ đi khuất ra sau, Phương vẫn đứng lặng yên một chổ. Nam dìu vợ mình về chổ ngồi. Cả 4 người đồng loạt qùi xuống, nắm tay cầu nguyện. (Trong khi 4 người vẫn qùi cầu nguyện, lời bài hát 'Khi tôi được bình dường sông chảy theo đường đời...' vang lên thật nhẹ nhàng. Chỉ hát câu 1, điệp khúc hát 2 lần ) ***** MÀN CUỐI: 1 tháng sau. Phương đang nằm trên giường, mắt bên phải băng lại. Nam ngồi bên cạnh quạt nhè nhẹ. Thấy ông bà Thanh đi vào, Thanh vội vàng đứng lên chào: - Ba má đến thăm tụi con. Phương đang nằm cũng vội vàng ngồi dậy: - Dạ chào ba má! Bà Hương vội vàng chạy đến bên giường đẩy Phương nằm lại xuống giường: - Đừng ngồi dậy con, cứ nằm cho khoẻ. Ông Thanh đặt bịch trái cây xuống bàn nói: - Ba má cảm ơn sự hy sinh của vợ chồng con, đặt biệt là con Phương đã hy sinh giác mạc để chữa lành con mắt của thằng Thắng. Ba má chẳng biết làm gì hơn là cầu nguyện xin Chúa ban phước lại trên con, và hy vọng rằng qua nghĩa cử cao đẹp của con, em con sẽ biết tu tâm, dưỡng tánh, cầu nguyện tin Chúa. Bà Hương ngồi bên cạnh nắm tay con dâu vừa mếu máo vừa nói: - Sao con quyết định làm chuyện này lại không nói cho chồng con biết và báo cho ba má hay? Nói đến đây chợt bà Hương òa khóc lớn: - Xin con tha lỗi cho mẹ đã từng có ý nghĩ không tốt về con. Giờ mẹ hiểu rằng, sống trong Chúa thật phước hạnh. Phương gắng gượng ngồi dậy, Nam vội đỡ vợ ngồi dậy, Phương an ủi bà Hương: - Má lại cứ xin lỗi con nữa rồi. Cảm ơn Chúa đã cho con được làm dâu của ba má, nhờ vậy mới đưa ba má về với Chúa. Nếu việc con hy sinh giác mạc để đưa em con ăn năn tin nhận Chúa, con cũng mãn nguyện má à. Vừa lúc đó, Thắng với con mắt trái đang băng, đôi chân khập khiểng, bước nhanh đến bên giường và qùi xuống bên cạnh Phương òa khóc: - Cảm ơn chị đã cứu em. Phương vỗ về Thắng: - Con mắt em chưa lành hẳn, đừng khóc nguy hiểm. Nếu để cứu em, chị cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống chị. Thắng quay sang ông bà Thanh và Nam: - Con hối hận về đời sống bê tha của con trong thời gian qua, xin ba má tha thứ cho con, xin anh Nam tha thứ cho em. Thắng vừa dứt lời, ông bà Thanh và Nam liền ôm Thắng cùng òa khóc. Ngồi trên giường, Phương cũng lấy tay áo chặm nước mắt. Ông Thanh nói: - Ba má rất vui khi con đã biết hối hận việc làm của mình và bằng lòng tha thứ hết những lỗi lầm của con. Cầu xin Chúa cũng tha thứ cho con. Vẫn qùi bên giường, Thắng quay sang nắm tay chị dâu: - Sao chị có thể lại hy sinh con mắt của chị cho em? Chị làm em cảm động quá. Phương nhỏ nhẹ nói: - Em đừng ái ngại nữa. Chúa đã hy sinh mạng sống trên thập tự giá để cứu rỗi linh hồn chị, vì vậy chị cũng sẵn sàng làm những điều tốt đẹp nhất cho em. Chị hy vọng rằng, sau tai nạn này, em sẽ biết thay đổi tâm tính thật sự, lo chí thú học hành để ba mẹ được vui lòng. Thắng nói quả quyết: - Em hứa mà. Em như kẻ về từ cõi chết còn gì mà không hứa hả chị. Như chợt nhớ ra điều quan trọng, Thắng vội nói: - Chị ơi, từ trước đến giờ em chẳng bao giờ nghĩ đến Trời, đến Chúa, nhưng từ khi bị tai nạn em đã suy nghĩ nhiều. Em thấy đời sống ngắn ngủi quá, sống nay chết mai. Rồi khi qua đời linh hồn mình sẽ đi về đâu? Đi lên cõi niết bàn hay đi xuống địa ngục âm ti? Như cuộc đời bê tha như em chắc chỉ có đi xuống. Vì vậy, hôm nay em muốn noi gương ba má và anh chị tin Chúa để tội lỗi được Ngài tha thứ, linh hồn được cứu rỗi. Chị cầu nguyện cho em nhé như chị đã từng cầu nguyện cho ba má. Phương mừng rỡ: - Ô cảm ơn Chúa! Điều chị làm cho em đã được đền bù xứng đáng. Em biết rằng, một linh hồn về trở về với Chúa còn quý hơn được cả thế gian. Chị tin chắc rằng, giờ này trên Thiên Đàng Chúa Giê-xu đang mừng rỡ, và thiên sứ đang ca hát vui vẻ mừng em trở nên con cái yêu dấu của Ngài. Bà Hương ôm chầm lấy Thắng: - Con ơi, má đã chờ ngày nay lâu rồi. Cảm ơn Chúa đã nhậm lời của má trong tuổi già. Trong khi Thắng qùi cúi đầu, mọi người cùng đứng xung quanh, tay đặt lên vai Thắng. Từ bên trong vang lên nhẹ nhàng bài hát: 'Xin Ngài tha thứ mọi tội tình ô nhơ...' ./. Phạm Thanh Bình Chicago 23/9/2015
|
|
|
Post by SV. PHẠM THANH BÌNH-JOSHEP on Oct 30, 2015 15:58:56 GMT -8
TẤM LÒNG CAO CẢ
Nhân vật: - Ông Thanh: Chồng bà Hương - Bà Hương: Vợ ông Thanh - Nam: Con trai lớn của ông bà Thanh-Hương - Thắng: Con trai út của ông bà Thanh-Hương - Phương: Vợ của Nam - Bác sĩ
Dụng cụ: - Cái bàn + 2 cái ghế + bình trà & 4 cái tách (Cảnh 1) - Bộ ghế sô-pha, gồm cái bàn, 1 ghế dài, 2 ghế đơn (Cảnh 2) - Bộ áo quần, mũ, ống nghe, khăn bịt miệng, đôi găng tay của bác sĩ và tấm bảng (hình bên dưới) (Cảnh 3) PHÒNG ĐỢI - Cái giường, 2 cái ghế, cái bàn, quạt giấy, bịch trái cây (Cảnh cuối)
MÀN 1:
Vừa đi dạy học về, thấy vợ ngồi thừ người bên bàn ăn, ông Thanh vội vàng dựng chiếc xe máy ngay cửa, chạy vào ngồi bên vợ vồn vả hỏi, vẻ lo lắng: - Bà có chuyện gì lo lắng gì nữa đây? Ngước mặt nhìn chồng, bà Hương bực bội nói: - Ông nghĩ sao không bực. Hồi nãy thằng Nam dẫn về con Phương nào đó ở xóm trên và giới thiệu là bạn gái của nó. Tôi tra hỏi một hồi mới biết rằng cha mẹ cô đó chỉ là nông dân, còn bản thân cô ta thì làm công nhân trong hãng may mặc. Nghĩ một chút như để lấy sức, bà Hương nói tiếp: - Với một gia đình như vậy, bản thân cũng chẳng khá hơn tí nào, thì làm sao xứng với thằng Nam nhà mình? Ông Thanh vỗ vai vợ nhỏ nhẹ nói: - Bà còn nhớ khi xưa, tôi cũng đã hí hửng dẫn bà về giới thiệu ba mẹ. Mẹ tui cũng từng có suy nghĩ giống như bà giờ này, may mà ba tui tôn trọng sự chọn lựa của con cái, nên tui mới cưới được bà và sống hạnh phúc đến ngày hôm nay. Nếu ngày trước tui phải nghe lời mẹ lập gia đình với cô Mai, con gái ông chủ của tui, có thể giờ này mỗi người mỗi ngã. Bà biết mà, có thật sự yêu nhau mới có thể ăn đời sống kiếp với nhau được. Nếu vợ chồng yêu thương nhau, thì việc làm ăn khá giả chỉ là thời gian. Ông bà mình cũng nói 'Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn'. Hơn nữa, con trai mình sống với vợ nó, chứ có phải mình đâu. Vẫn chưa hết bực mình, bà Hương nói tiếp: - Ông nói vậy tôi cũng đồng ý, nhưng đàng này tui còn được biết gia đình con nhỏ này theo đạo Tin Lành, còn dụ thằng Nam vô đạo nữa, hèn chi thời gian gần đây đêm nào trước khi ngủ tôi cũng thấy thằng Nam thường đọc quyển gì đó. Khi nó đưa con kia đi về, tôi chạy lên phòng thì phát hiện quyển sách đó là quyển Kinh Thánh. Ông cũng biết rồi đó, cái đạo chi dạy con bất hiếu, bỏ ông bỏ bà. Rồi nay mai tui và ông về với ông bà, ai lo cúng cho tui và ông đây? Ông Thanh cười: - Bà thật là người lo xa. Nếu là người mê tín thì cho rằng bà xui quẩy; đang sống sờ sờ mạnh khoẻ tự nhiên nói chi chuyện chết chẳng thích thú tí nào. Sống trên đời bao nhiêu năm mà bà chẳng hiểu gì cả. Con cái hiếu thảo là khi cha mẹ còn sống, lo chăm sóc chu đáo. Chứ đợi cha mẹ chết đi rồi cúng kiếng, làm văn tế ruồi à? - Nhưng tui không thích có con dâu theo đạo Tin Lành, bà con lối xóm lại tiếng ra tiếng vào. Ông Thanh ôn tồn giãi thích: - Bà sợ chi miệng chê khen của thế gian. Quan trọng là làm sao gia đình mình, vợ chồng con cái sống thuận hòa, kính trên nhường dưới. Bước ra đường ngẩng nhìn trời không thẹn, nhìn xuống đất không xấu hổ, nhìn mọi người tự tin bước tới là được rồi. Bà Hương bướng bỉnh cố nói: - Nhưng tôi đã nói là tôi không thích có con dâu theo đạo Tin Lành ông hiểu không? Lần này ông Thanh cười lớn thành tiếng: - Tưởng chuyện gì lớn, nếu có con dâu đạo Tin Lành càng tốt. Đã bao nhiêu năm đi dạy học, tui chưa bao giờ thấy học sinh Tin Lành vi phạm kỷ luật cả. Trong trường lễ phép với thấy cô, nhường nhịn bạn bè, ra đường lễ phép với mọi người; xã hội này mà toàn tín hữu Tin Lành tôi nghĩ rằng ban đêm đi ngủ mình khỏi cần khóa cửa trong, cửa ngoài cho mệt. Rót trà ra 2 tách, mời vợ một tách, bà Hương đưa lên miệng uống và nói: - Cảm ơn! Uống hớp nước ông Thanh nói tiếp: - Bà thấy rồi đó, đạo Phật mà gia đình mình đang theo cũng đến từ nước ngoài. Điều quan trọng, tui thấy ba đời giòng họ hai bên cũng chẳng được gì khi đặt hết niềm tin vào tôn giáo của mình. Nhiều người bà con mình nghèo, sau nhiều năm làm lụng bây giờ họ cũng chẳng khá hơn gì cả, tiếp tục khổ. Trong khi đó, mấy gia đình tín hữu Tin Lành trong xóm mình, mặc dầu nhiều người cũng chẳng giàu có gì, nhưng tui thấy cuộc sống họ sao hạnh phúc quá, thấy mà ham. Hàng ngày làm việc lam lũ sao không biết, nhưng cứ mỗi sáng Chúa Nhật, cả gia đình vợ chồng, con cái lại bận áo quần đẹp đến nhà thờ; rồi cũng ngày ba bữa chẳng thiếu thốn gì. Còn mình thì làm 6 ngày không đủ, làm luôn ngày Chúa Nhật cũng ba bữa một ngày, chẳng dư dật gì hơn. Chợt nhớ ra điều gì, ông Thanh liền nói: - Bà có thấy Nam con mình thời gian gần đây được đổi mới hay không? Trước đây sau khi tan ca đêm nào cũng la cà quán cà phê đến tối mới về đến nhà. Còn thời gian gần đây tui thấy, đêm nào sau khi tan công việc thằng Nam cũng vội vàng về nhà, còn cặm cụi học hành gì đó. Tui nghĩ có lẽ nhờ nó theo đạo Tin Lành đó bà. Như vậy, thay vì trách móc, mình còn phải cảm ơn cô kia nữa kìa. Có vẻ xuôi lòng với những gì chồng đã nói, khuôn mặt bà Hương dịu lại, bà đứng dậy đi vào nhà bếp, vừa đi vừa nói: - Tui không biết, tùy ông lo liệu, có gì sau này đừng đổi thừa tui. Tui đi dọn cơm đây. Nhìn theo bóng dáng vợ đi khuất vào nhà bếp, ông Thanh ngồi mỉm cười, lẩm bẩm một mình: - Đúng là phụ nữ, thấy mà thương. Tính tình như thời tiết 4 mùa, lúc bão, lúc mưa, khi âm u, lúc tạnh ráo, nhưng thiếu phụ nữ chắc đàn ông trên thế gian như mình thà chết sướng hơn. ***** MÀN 2: Hai năm sau
Hai vợ chồng ông bà Thanh đang ngồi đọc báo (cả hai đang ngồi ghế sô-pha lớn), chợt nghe tiếng động bên ngoài, bà Hương hướng ra ngoài cửa lên tiếng: - Ai đang làm gì ngoài đó? Không một tiếng trả lời, Thắng từ ngoài cửa bước vào với dáng đi loạng choạng, nghiêng người bên này, ngã qua bên kia, miệng ú ớ nói gì không rõ. - Ơ... ơ... con Thắng, có gì không con? Vừa nói dứt câu, bà Hương vội vàng nhào ra khỏi ghế chạy tới đỡ Thắng, nhưng không kịp, Thắng say quá ngã té xuống sàn nhà, bà Hương hoảng hốt gọi chồng: - Ông tới phụ tui một tay đỡ con lên ghế. - Thật là con với cái, say sưa tối ngày chẳng ra thể thống gì cả. Nói thì nói, nhưng ông Thanh cũng mau mắn chạy tới phụ vợ đỡ Thắng lên. Vừa lúc đó, vợ chồng Nam-Phương vui vẻ cặp tay nhau bước vào, hai vợ chồng đồng loạt lên tiếng: - Thưa ba má, chúng con tới thăm ba má nè. Ông Thanh ngẩng đầu lên nhìn nói: - Chào hai con tới thăm ba má. Chợt nhìn thấy Thắng đang nằm sóng soài dưới sàn nhà, vợ chồng Nam nhanh chóng chạy tới cạnh bên cạnh ông bà Thanh: - Ba mẹ để đó chúng con đỡ em lên cho. Nhìn vợ chồng Nam đưa được Thắng lên ngồi trên ghế (ghế sô-pha lớn. Vợ chồng Nam ngồi hai bên, Thắng ngồi ở giữa, đã tỉnh táo nhiều. Lúc này ông bà Thanh mỗi người ngồi mỗi ghế lẻ, đối diện ), ôngThanh lắc đầu ngao ngán, miệng lầm bầm: - Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Có lẽ nhận ra được sai trái của mình khi chìu chuộng con quá mức đến nỗi Thắng sinh hư như ngày hôm nay, bà Hương chỉ biết nói gỡ gạc cho có lệ: - Đàn ông mấy người chỉ giỏi đổ thừa. Ngồi bên cạnh em, Nam vỗ vai Thắng khuyên: - Em đã hai mươi mấy tuổi đầu rồi, bỏ bớt rượu chè với bạn bè đi. Thắng lè nhè: - Anh tưởng dễ như anh nghĩ hả? Phương xen vào: Thật sự chị biết có một Đấng có thể giúp em cai được rượu như đã từng giúp anh Nam. Thắng tỏ vẻ khó chịu: - Thôi chị ơi, đừng cứ đem ông Chúa Giê-xu nào đó ra nói mãi với em, em không tin đâu. Vẫn giọng nhỏ nhẹ: - Anh chị vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho ba má và em có ngày sẽ tiếp nhận làm Cứu Chúa đời mình; chỉ có vậy cuộc đời gia đình mình sẽ được Chúa ban phước. Ngồi yên hồi nãy giờ, giờ ông Thanh mới lên tiếng: - Thắng à, con cũng nên noi gương anh chăm lo học hành, từ bỏ ăn chơi đàn đúm với mấy đứa bạn vô công rỗi nghề, chỉ biết đi quậy hàng xóm. Nếu con không chịu sửa đổi tâm tánh, có ngày sẽ mang họa. Bà Hương nhìn Nam nói: - Thôi con đưa em con vô phòng nghỉ rồi ra đây ba má muốn nói chuyện này với hai con. (Nam dìu Thắng ra phòng sau, rồi trở ra ngồi lại chổ củ, bên cạnh vợ)
Nam vừa ngồi xuống ghế, bà Hương liền lên tiếng: - Phương à, từ khi thằng Nam quen biết con, rồi hai con lập gia đình với nhau đến nay đã hơn 2 năm. Chừng ấy năm má đã tìm hiểu con thật nhiều, má thành thật công nhận con là con dâu tốt. Má tin chắc rằng, đạo Tin Lành đã ảnh hưởng tốt trên đời sống con, bằng chứng là từ khi thằng Nam yêu con, từ một người chỉ biết tụ ba, tụ năm, rượu chè với bạn bè, trở thành một người chăm lo gia đình, làm việc chăm chỉ. Ông Thanh nôn nóng cắt ngang lời vợ: - Bà nói gì nhập đề vô lẹ để các con về nghỉ ngơi ngày mai đi làm sớm. Bà Phương quay qua chồng: - Ông này, nói gì cũng từ từ chứ. Hai vợ chồng Nam-Phương cùng cười. Phương lên tiếng: - Ba cứ để má nói đến sáng vợ chồng con cũng chịu khó ngồi nghe mà. - Thôi, thôi, để má nhập đề luôn. Bà Hương mỉm cười nói tiếp: - Ba má đã bàn thảo và đi đến quyết định là nhờ hai con Chúa Nhật này dẫn ba má đi nhà thờ Tin Lành để ba má cầu nguyện tin Chúa giống như hai con. Hai con cũng nhớ cầu nguyện cho Thắng em con cũng biết hồi tâm. Bà Hương vừa dứt lời, Nam liền đi tới ôm ông Nam, còn Phương ôm bà Hương nói trong nước mắt: - Cảm ơn Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của chúng con hơn 2 năm nay. Đây là ngày vui nhất trong đời con. Bà Hương hai tay nắm hai tay Phương nói: - Xin lỗi con, trước đây má đã không nghĩ tốt về con, về đạo Tin Lành. Má cảm ơn Trời đã ban cho con làm con dâu của ba má. Bà Hương buông tay ôm choàng Phương. Ông Thanh và Nam cùng đứng dậy, ông Thanh choàng tay lên vai vợ, còn Nam đến ôm vợ mình. Cả 4 người im lặng. (Tiếng vọng bài hát: 'Con bơ vơ bước chân đi giữa sa mạc khô' vang lên nhẹ nhàng) ***** MÀN 3: Khung cảnh tại bệnh viện
Bà Hương và Phương ngồi yên lặng, lâu lâu bà Hương lấy khăn chậm mắt sụt sùi khóc, những lúc như thế, Phương nắm chặc bàn tay của bà lên tiếng an ủi: - Không sao đâu má. Chúng ta cứ tiếp tục cầu nguyện xin Chúa cứu giúp Thắng. Trong khi Nam cứ đứng yên bên cạnh vợ, ông Thanh cứ đi qua đi lại lắc đầu thở dài vẻ mệt mỏi. Bất chợt, bác sĩ mở cửa phòng đi ra, ông Thanh vội vàng chạy đến trước, Phương dìu bà Hương đứng dậy cùng với Nam chạy liền theo sau. Ông Nam hỏi: - Thưa bác sĩ, con tôi có sao không bác sĩ? Bác sĩ vừa tháo khăn bịt miệng và đôi găng tay, nhìn mọi người hỏi: - Con ông bà tên gì? - Dạ Trương Quyết Thắng. Ông Nam trả lời - Tai nạn xe cộ lần này nguyên nhân đến từ con trai ông bà và người bạn uống rượu say, không chủ động được tay lái nên đã tự động tông vào cái miểu nhỏ bên đường. Cậu bạn là người lái xe nên đã chết ngay tại chổ, con ông bà ngồi phía sau nên còn giữ được tính mạng. Tuy nhiên, tôi muốn báo một tin buồn cho ông bà, vì bị chấn động mạnh, đôi mắt của cậu Thắng... Bác sĩ nói ngập ngừng: - Đôi... đôi mắt... mắt... Bà Hương nôn nóng hỏi: - Là sao bác sĩ? Bác sĩ ngại ngùng nói: - Có lẽ sẽ mù vĩnh viễn - Ôi, Chúa ơi, xin cứu Thắng của con. Thốt ra được bao nhiêu đó, bà Hương qụi xuống khóc nức nở. Ông Thanh vội vàng đỡ vợ về chổ ngồi. Phương ngập ngừng hỏi bác sĩ: - Thưa bác sĩ, thế có cách gì chữa được đôi mắt của em cháu không? Bác sĩ thở dài: - Chỉ còn cách duy nhất, là ai đó có thể hy sinh giác mạc của mình để thay thể giác mạc của cậu ấy. Nhưng điều này phải cần được làm càng sớm càng tốt. Thời điểm để có thể phẩu thuật thay thế giác mạc được tỉ lệ thành công cao khi cậu ấy đã được hồi tỉnh, và có đủ sức khoẻ để chịu đựng được cuộc giãi phẩu. Thôi tôi xin phép đi để tiếp tục ca mổ khác. - Dạ cảm ơn bác sĩ. Vợ chồng Nam-Phương đồng loạt lên tiếng. Nhìn bác sĩ đi khuất ra sau, Phương vẫn đứng lặng yên một chổ. Nam dìu vợ mình về chổ ngồi. Cả 4 người đồng loạt qùi xuống, nắm tay cầu nguyện. (Trong khi 4 người vẫn qùi cầu nguyện, lời bài hát 'Khi tôi được bình dường sông chảy theo đường đời...' vang lên thật nhẹ nhàng. Chỉ hát câu 1, điệp khúc hát 2 lần ) ***** MÀN CUỐI: 1 tháng sau. Phương đang nằm trên giường, mắt bên phải băng lại. Nam ngồi bên cạnh quạt nhè nhẹ. Thấy ông bà Thanh đi vào, Thanh vội vàng đứng lên chào: - Ba má đến thăm tụi con. Phương đang nằm cũng vội vàng ngồi dậy: - Dạ chào ba má! Bà Hương vội vàng chạy đến bên giường đẩy Phương nằm lại xuống giường: - Đừng ngồi dậy con, cứ nằm cho khoẻ. Ông Thanh đặt bịch trái cây xuống bàn nói: - Ba má cảm ơn sự hy sinh của vợ chồng con, đặt biệt là con Phương đã hy sinh giác mạc để chữa lành con mắt của thằng Thắng. Ba má chẳng biết làm gì hơn là cầu nguyện xin Chúa ban phước lại trên con, và hy vọng rằng qua nghĩa cử cao đẹp của con, em con sẽ biết tu tâm, dưỡng tánh, cầu nguyện tin Chúa. Bà Hương ngồi bên cạnh nắm tay con dâu vừa mếu máo vừa nói: - Sao con quyết định làm chuyện này lại không nói cho chồng con biết và báo cho ba má hay? Nói đến đây chợt bà Hương òa khóc lớn: - Xin con tha lỗi cho mẹ đã từng có ý nghĩ không tốt về con. Giờ mẹ hiểu rằng, sống trong Chúa thật phước hạnh. Phương gắng gượng ngồi dậy, Nam vội đỡ vợ ngồi dậy, Phương an ủi bà Hương: - Má lại cứ xin lỗi con nữa rồi. Cảm ơn Chúa đã cho con được làm dâu của ba má, nhờ vậy mới đưa ba má về với Chúa. Nếu việc con hy sinh giác mạc để đưa em con ăn năn tin nhận Chúa, con cũng mãn nguyện má à. Vừa lúc đó, Thắng với con mắt trái đang băng, đôi chân khập khiểng, bước nhanh đến bên giường và qùi xuống bên cạnh Phương òa khóc: - Cảm ơn chị đã cứu em. Phương vỗ về Thắng: - Con mắt em chưa lành hẳn, đừng khóc nguy hiểm. Nếu để cứu em, chị cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống chị. Thắng quay sang ông bà Thanh và Nam: - Con hối hận về đời sống bê tha của con trong thời gian qua, xin ba má tha thứ cho con, xin anh Nam tha thứ cho em. Thắng vừa dứt lời, ông bà Thanh và Nam liền ôm Thắng cùng òa khóc. Ngồi trên giường, Phương cũng lấy tay áo chặm nước mắt. Ông Thanh nói: - Ba má rất vui khi con đã biết hối hận việc làm của mình và bằng lòng tha thứ hết những lỗi lầm của con. Cầu xin Chúa cũng tha thứ cho con. Vẫn qùi bên giường, Thắng quay sang nắm tay chị dâu: - Sao chị có thể lại hy sinh con mắt của chị cho em? Chị làm em cảm động quá. Phương nhỏ nhẹ nói: - Em đừng ái ngại nữa. Chúa đã hy sinh mạng sống trên thập tự giá để cứu rỗi linh hồn chị, vì vậy chị cũng sẵn sàng làm những điều tốt đẹp nhất cho em. Chị hy vọng rằng, sau tai nạn này, em sẽ biết thay đổi tâm tính thật sự, lo chí thú học hành để ba mẹ được vui lòng. Thắng nói quả quyết: - Em hứa mà. Em như kẻ về từ cõi chết còn gì mà không hứa hả chị. Như chợt nhớ ra điều quan trọng, Thắng vội nói: - Chị ơi, từ trước đến giờ em chẳng bao giờ nghĩ đến Trời, đến Chúa, nhưng từ khi bị tai nạn em đã suy nghĩ nhiều. Em thấy đời sống ngắn ngủi quá, sống nay chết mai. Rồi khi qua đời linh hồn mình sẽ đi về đâu? Đi lên cõi niết bàn hay đi xuống địa ngục âm ti? Như cuộc đời bê tha như em chắc chỉ có đi xuống. Vì vậy, hôm nay em muốn noi gương ba má và anh chị tin Chúa để tội lỗi được Ngài tha thứ, linh hồn được cứu rỗi. Chị cầu nguyện cho em nhé như chị đã từng cầu nguyện cho ba má. Phương mừng rỡ: - Ô cảm ơn Chúa! Điều chị làm cho em đã được đền bù xứng đáng. Em biết rằng, một linh hồn về trở về với Chúa còn quý hơn được cả thế gian. Chị tin chắc rằng, giờ này trên Thiên Đàng Chúa Giê-xu đang mừng rỡ, và thiên sứ đang ca hát vui vẻ mừng em trở nên con cái yêu dấu của Ngài. Bà Hương ôm chầm lấy Thắng: - Con ơi, má đã chờ ngày nay lâu rồi. Cảm ơn Chúa đã nhậm lời của má trong tuổi già. Trong khi Thắng qùi cúi đầu, mọi người cùng đứng xung quanh, tay đặt lên vai Thắng. Từ bên trong vang lên nhẹ nhàng bài hát: 'Xin Ngài tha thứ mọi tội tình ô nhơ...' ./. Phạm Thanh Bình Chicago 23/9/2015
|
|
|
Post by MA.-SV. NGUYỄN JONATHAN on Jul 11, 2016 7:09:19 GMT -8
Kính chào quý giáo sư, mục sư cùng thầy cô. Xin mời đọc truyện ngắn mới của tác giả: Nguyên J www.songdaoonline.com/e4207-38-phai-tim-ve-nguyen-j.htmlNguyện xin Chúa ban phước, gìn giữ chúng ta theo ý Chúa. VẠT NẮNG MÙA THU!
Gió heo may gọi, mùa thu lại đến Nắng thu về, lá biếc trở vàng khô Mùa thu khóc, hững hờ vàng lá rụng Mùa thu buồn, vạt nắng rớt trên tay
Nhặt lá vàng, tìm nỗi nhớ lung lay Bước về đâu tìm lại những tháng ngày Cho hết nỗi chờ mong thân viễn xứ Có một người luôn đợi mãi mùa thu Vạt Nắng Mùa Thu, phải tìm về Dallas hôm nay là một ngày nắng thật đẹp, trời trong xanh, gió thổi nhè nhẹ, tia nắng sớm xuyên qua những cành lá còn đọng lại những giọt sương mai sắp tan. Hiếu lấy tay nhẹ nhàng phủi sạch lớp bụi bám trên bia mộ với cái tên David Long Wyatt, rồi nhẹ nhàng đặt bó hoa hướng dương xuống trước mộ của Long. Ngày còn sống Long thích hoa hướng dương lắm, vì Long nói nó tượng trưng cho hy vọng, cho ngày mai tươi sáng. Đã hơn hai năm kể từ ngày Long mất, Hiếu mới quay trở lại thành phố Dallas này. Hiếu và Long hai số phận, hai cuộc đời khác nhau nhưng đều có chung một định mệnh với nước Mỹ. Hiếu không nhớ rõ ba mẹ mình là ai, chỉ biết rằng cậu được đưa lên một chiếc máy bay thật to cùng nhiều người khác nữa để đến nước Mỹ này. Thứ duy nhất mà cậu ấy còn nhớ được đó là cái tên và ký ức mơ hồ về quê hương của mình.
Những cánh rừng cao su, vùng kinh tế mới, ba Lành, mẹ Nhẫn, anh Hậu là những thứ mà trong tâm trí bé nhỏ của một cậu bé bảy tuổi như Hiếu lúc bấy giờ còn nhớ được. Đến Mỹ Hiếu được đưa đến tiểu bang Texas, và được ở tạm trong nhà của một cặp vợ chồng giáo sĩ người bản xứ đã về hưu. Mỗi ngày cậu được đưa đến một nhà thờ để học tiếng anh cùng nhiều đứa trẻ khác nữa. Một đứa trẻ được đưa đến một nơi xa lạ, với xung quanh toàn những người không quen thuộc, nên lúc đầu Hiếu cảm thấy sợ, và khóc rất nhiều.
Hiếu nhớ nhà, nhớ ba mẹ, nhớ những ngày chơi đùa trên con đường làng với mấy đứa bạn hàng xóm. Hiếu cầu nguyện với Chúa rất nhiều, Hiếu xin Chúa hãy đưa cậu về với ba mẹ của mình, Hiếu ghét nơi này nó chẳng vui tí nào, không có ba mẹ, không có con đường làng với những hàng cây cao su cho Hiếu và cả đám bạn hàng xóm chơi đùa như lúc trước. Nhưng Chúa dường như chẳng đáp lại lời cầu xin của cậu, dần dà với suy nghĩ non nớt của một đứa trẻ hoang mang và sợ hãi, cậu đâm ra ghét Chúa và thực sự mất niềm tin mà cậu được nghe rao giảng hàng ngày rằng có một Chúa Trời, luôn yêu thương nhân loại, và dĩ nhiên cậu bé ấy nghĩ rằng nếu yêu thương thì sẽ đáp ứng mọi điều mong muốn của con người.
Không lâu sau thì một gia đình người bản xứ hay đến sinh hoạt tại nhà thờ đã chú ý đến cậu, một cậu bé kháu khỉnh, có đôi mắt buồn và hay ngồi một mình nhìn xa xăm. Họ đến bắt chuyện với cậu. Cậu rụt rè, ngại giao tiếp. Họ nói gì cậu cũng chỉ biết lắc đầu vì cậu chỉ nghe loáng thoáng được lời họ nó, nhưng lại không hiểu họ đang hỏi mình vấn đề gì. Nhưng họ lại cảm thấy thiện cảm với cậu, họ nghĩ mình nên làm gì đó cho cậu bé này. Thế là họ đã mở rộng trái tim nhận Hiếu về nuôi, cậu bắt đầu cuộc sống mới với ba mẹ nuôi, và hai người anh chị em mới. Một thân phận mới với cái tên là Jack Matthew mà ba mẹ mới của cậu đặt cho.
Nhưng cậu không bao giờ quên cái tên Hiếu của mình. Cậu bắt đầu đến trường đi học. Đến trường Hiếu thường hay bị bạn bè bắt nạt, chế giễu vì Hiếu trông không giống như họ, và cũng nhỏ con, thấp bé hơn họ. Hiếu buồn và sợ lắm. Cậu sợ cái cảm giác đến trường bị bạn bè trêu ghẹo. Nhưng thật may mắn là Hiếu có hai người anh chị luôn xuất hiện để bảo vệ và che chở cho cậu là Mark và Lily. Tình yêu thương và sự chăm sóc của gia đình mới, khiến cậu dần quên mất những khác biệt về màu da sắc tộc.
Rồi một ngày đang ngồi thơ thẩn trong khuôn viên trường thì Hiếu gặp lại Long, cậu sợ mình nhìn nhầm nhưng cậu cũng can đảm gọi lên thật to: “Long…Long. Long quay đầu lại nhìn Hiếu, là Long thật rồi hai cậu mừng rỡ chay đến bên nhau. Long là một trong những đứa trẻ được đưa đến Mỹ cùng với Hiếu và cùng học tiếng Anh trong nhà thờ với Hiếu, Long lớn hơn Hiếu khoảng hai tuổi. Lúc còn học tiếng anh ở nhà thờ Hiếu và Long rất hay nói chuyện và chia sẽ đồ ăn với nhau. Lúc Hiếu được nhận nuôi thì cậu không còn đến nhà thờ để học tiếng anh nữa.
Giờ gặp lại nhau ở đây hai đứa trẻ mừng không thể tả. Hỏi chuyện ra thì bây giờ Long cũng đã được một gia đình người bản xứ nhận nuôi và cũng ở cùng thành phố với Hiếu. Khác với Hiếu, Long vẫn nhớ rất rõ nhiều chi tiết về cuộc đời mình. Cậu là Nguyễn Văn Long, nhà cậu ở ngay tại Sài Gòn, những hồi ức về quê hương, về hình ảnh khuôn mặt bố mẹ và hai người chị gái luôn day dẵn trong ký ức của cậu. Kỷ vật duy nhất mà Long còn có được đó là tấm ảnh chụp trắng đen mà cậu chụp với ba mẹ cậu, trong cái ngày mà họ gửi cậu lại trong trại trẻ mồ côi với dòng chữ trại mồ côi Tâm Ái –Nguyễn Văn Long và tấm ảnh đó là tài sản quý giá duy nhất còn xót lại và luôn được cậu cất giữ cẩn thận.
Rồi thời gian cứ thế trôi đi hai cậu bạn thân Hiếu và Long đã có nữa khoảng thời thơ ấu cùng học chung với nhau, cùng nhau lớn lên tại thành phố Dallas này. Hai người có một giao kèo là luôn luôn phải nói tiếng Việt với nhau để không quên đi tiếng mẹ đẻ của mình. Nếu như Hiếu sống vui vẻ chẳng mãy may quan tâm đến nguồn cội gốc gác của mình, vì cậu đã xem gia đình mới của mình là gia đình thật sự của mình và bản thân cậu là một người Mỹ thực thụ, thì Long lại luôn khắc khoải về thân phận và nguồn gốc của mình. Nỗi khắc khoải của Long đã dồn nén từ những năm anh còn học ở trong trường, hay bị một số kẻ phân biệt chủng tộc bắt nạt và lăng mạ vì cậu là một trong số ít ỏi những người khác biệt về màu da, sắc vóc.
Câu hỏi về thân phận và nguồn gốc của bản thân chưa bao giờ thôi ám ảnh Long. Khi vào đại học Long và Hiếu cùng sinh hoạt tại Hội Thánh của người Việt Nam. Ở đây Long được tiếp xúc với nhiều người Việt lớn tuổi, nghe họ kể về những câu chuyện ở Việt Nam càng làm Long khát khao muốn tìm lại mình là ai? Cha mẹ mình đang ở đâu? Họ sống có tốt không? Họ có nhớ tới mình không? Và vì sao họ lại bỏ mình ở lại trong trại trẻ mồ côi? Những câu hỏi ấy đã thôi thúc Long bắt đầu cuộc hành trình tìm lại cuộc đời mình. Khi Long chia sẽ ý định này với Hiếu thì Hiếu đã lập tức bác bỏ nó. Hiếu khuyên Long nên sống với thực tại, cố tìm làm gì khi họ đã cố tình bỏ rơi cậu.
Hơn nữa, thời gian đã qua lâu lắm rồi và việc tìm lại người thân dường như là vô vọng. Trong khi những thứ có thể giúp cậu tìm lại gia đình chỉ là những mãng ký ức rời rạc, mơ hồ và một tấm ảnh chụp với mẹ cậu đã rất cũ kỹ. Nếu ba mẹ cậu thực sự thương cậu thì sẽ không để cậu lại trại trẻ mồ côi và để cậu được đưa đến nước Mỹ này. Hiếu khuyên Long hãy xem nước Mỹ và ba mẹ nuôi là định mệnh của mình và hãy thôi đi ý định tìm lại ba mẹ ruột. Bỏ ngoài tai những lời nói của Hiếu, Long vẫn sẽ tìm lại ba mẹ mình và gốc gác của mình.
Dù cơ hội có mong manh đến thế nào thì anh cũng sẽ thử. Việc tìm về nguồn cội được Long tiến hành trong êm đềm vì Long sợ sẽ ảnh hưởng đến ba mẹ nuôi, làm họ bị tổn thương vì anh biết rằng họ rất yêu thương anh dù anh không phải là con ruột của họ. Long bắt đầu lên mạng tìm hiểu những tư liệu về chiến tranh Việt Nam xưa, anh đăng tấm ảnh duy nhất mà anh có chụp cùng mẹ ở trại trẻ mồ côi lên mạng xã hội để tìm kiếm.
Trong suốt khoảng thời gian học đại học, Long vừa đi học vừa đi làm để kiếm tiền với hi vọng sẽ trở về Việt Nam thăm lại quê hương cũng như tìm lại người thân của mình, bởi tiền là thứ thiết yếu không thể thiếu để giúp anh tìm lại gia đình mình. Anh không thể nhờ sự trợ giúp của ba mẹ nuôi được vì anh sợ họ sẽ buồn lòng khi tình cảm mà họ dành cho anh bao nhiêu lâu nay vẫn chỉ đổi lại tiếng ba mẹ nuôi. Nhận thấy sự quyết tâm của Long và khát khao tìm lại gia đình của Long, Hiếu từ phản đối dần dần chuyển qua hành động giúp đỡ Long trên con đường tìm lại người thân.
Sau suốt những năm tháng miệt mài trên giảng đường đại học thì Long cũng đã tốt nghiệp đại học với tấm bằng kỹ sư điện tử loại giỏi. Hiếu thì cũng tốt nghiệp ngành cử nhân tài chính ngân hàng loại xuất sắc. Cả hai anh đều được nhiều công ty săn đón mời về làm. Cả một tương lai rất tươi sáng đang chờ họ phía trước. Trước khi bắt đầu cho công việc thì Long đã rủ Hiếu cùng về Việt Nam với mình một chuyến, để thăm lại quê hương nơi mà họ đã sinh ra và có những chuỗi ngày thơ ấu với những người thân thương, trước khi khi đến nước Mỹ này. Hai người bạn chuẩn bị hành lý, họ khăn gói lên đường sẵn sàng cho chuyến thăm về nguồn cội của mình. Vừa đặt chân ra khỏi sân bay, ngồi trên taxi đảo mắt nhìn quanh các con đường, các tòa nhà cao tầng của Sài Gòn, một cảm giác xa lạ mà lại thân quen dâng trào lên tâm trí của Long.
Sài Gòn bây giờ thật khác quá, vẻ mang mác cổ điển của một Sài Gòn xưa từng được mệnh danh là hòn ngọc Viễn Đông đã không còn mà thay vào đó là một Sài Gòn vội vàng, hối hả của những dòng người đông đúc. Tuy vậy, những con đường len qua các con hẻm, những ngôi nhà xập xệ nằm ngang dọc trong hẻm vẫn còn phảng phất đâu đó một chút quen thuộc những ký ức thời thơ ấu của Long. Long nhớ nhà cậu là một ngôi nhà gỗ nhỏ với những tấm ván cũ kỹ sắp mục trong một con hẻm, mỗi khi Sài Gòn trở gió thì mái nhà như chực chờ bay theo cơn gió, gió len qua những kẻ hở của những tấm ván rít buốt lạnh thấu. Những ngày mưa thì dột tứ phía khiến gia đình cậu phải tận dụng những cái thau, cái nồi để hứng từng giọt nước mưa đang chảy xuống từ mái nhà.
Giọng nói của Hiếu mang Long trở về thực tại: “Đến khách sạn rồi”, xuống thôi. Long và Hiếu thuê một khách sạn ngay tại quận nhất gần chợ bến thành. Sáng hôm sau thì họ bắt đầu đến thăm một số trại trẻ mồ côi và tìm tung tích của cái trại trẻ mồ côi tên là Tâm Ái, được ghi trong tấm hình với hi vọng sẽ tìm được hồ sơ lưu thông tin của Long, cũng như tìm gặp người đã nhận Long vào trại trẻ mồ côi ngày ấy.
Nhưng dường như mọi thứ họ nhận được đều là những cái lắc đầu vô vọng, vì ngày ấy có biết bao cái trại trẻ mồ côi ở Sài Gòn và hơn nữa cái trại trẻ mồ côi Tâm Ái ngày nào chắc cũng đã giải thể mất rồi. Sau gần một tháng đi vòng quanh Sài Gòn tìm kiếm thì Hiếu và Long cũng đành phải thất vọng trở lại Mỹ. Hiếu thì chẳng thấy tia hy vọng nào trong cuộc tìm kiếm này, nhưng Long vẫn luôn nuôi hy vọng và có niềm tin rằng mình sẽ gặp lại những người thân yêu của mình.
Trở về Mỹ Hiếu bắt đầu vào làm cho một ngân hàng lớn tại thành phố. Còn Long vào làm kỹ sư điện tử cho một công ty cũng tại Dallas. Nếu như Hiếu chỉ muốn cố gắng làm, kiếm thật nhiều tiền để tận hưởng cuộc sống, đi du lịch đó đây và để chuẩn bị cho cuộc sống gia đình sau này, thì Long lại cố gắng kiếm tiền để trở lại Việt Nam tìm lại gia đình mình lần nữa. Khi có tiền anh sẽ có thể nhờ thám tử điều tra, nhờ báo chí giúp đỡ thì việc tìm kiếm sẽ có hiệu quả hơn.
Thế nhưng đôi khi cuộc đời đâu như mong ước của con người. Mọi chuyện đều đã được sắp xếp an bài. Khi cầm tờ giấy xét nghiệm trên tay Long không khỏi bàng hoàng khi biết mình đã mắt căn bệnh ung thư vòm họng ở giai đoạn cuối. Những khoảng thời gian còn lại của cuộc đời cậu không phải là khoảng thời gian tìm kiếm gia đình nữa, mà là khoảng thời gian cậu vật vã trên giường bệnh sau những cơn xạ trị. Thế nhưng chưa bao giờ Long than trách số phận hay than trách Chúa.
Cậu cảm ơn Chúa đã mang anh đến cõi đời này, đã cho cậu có được những người cha mẹ nuôi yêu thương cậu và cho cậu có được cậu bạn thân là Hiếu, đã cùng cậu lớn lên bên nhau và chia sẽ mọi điều trong cuộc sống. Dù phải đau đớn vì những cơn đau hành hạ nhưng Long luôn lạc quan, và anh tin mình sẽ vượt qua.
Những ngày trên giường bệnh Long nhận ra rằng mọi điều được và mất trên thế giới này đều đã được Chúa sắp đặt và mọi người đều được Chúa sắp xếp cho một kế hoạch của đời mình và Long vẫn mỉm cười về với Chúa nếu như muốn cậu về với Ngài. Điều hối tiếc duy nhất của Long đó là anh chưa được gặp lại những người thân ruột thịt của mình, chưa được hỏi là họ có nhớ cậu không? Và tại sao họ lại bỏ cậu lại ở trại trẻ mồ côi ngày đó?. Nhìn người bạn của mình ngày càng yếu sức trên giường bệnh mà Hiếu không biết phải làm gì để giúp đỡ bạn mình.
Nỗi sợ phải mất đi người bạn thân luôn sát cánh cùng nhau suốt ngần ấy thời gian trưởng thành ở nước Mỹ nà, khiến Hiếu không ngăn nổi nhưng giọt nước mắt xót xa. Rồi cái ngày định mệnh ấy cũng đến, cái ngày mà sau hơn năm tháng chống chọi với căn bệnh thì Long cũng đã vĩnh viễn ra đi về với Chúa. Ở nơi thiên đường ấy chắc Long sẽ hạnh phúc và yên bình hơn. Ngày đám tang của Long, Hiếu luôn túc trực trong đám tang và tuyệt nhiên anh không rơi một giọt nước mắt nào, bởi nước mắt của anh đã thành giọt nước mắt khô của tận cùng xót xa, mất mát. Hơn nữa, khi còn sống Hiếu biết Long luôn mong muốn gia đình, bạn bè thân yêu của mình đều phải luôn vui vẻ và lạc quan dù thế nào đi nữa.
Sau đám tang của Long, Hiếu nhận được một hợp đồ vật dụng của Long mà bệnh viện gửi trả lại. Hiếu mở ra xem lại thì phát hiện trong đống đồ đạc của Long có một phong bì chưa được dán lại, bên trong có một lá thư. Hiếu tò mò mở lá thư ra đọc. Cậu lướt qua từng câu chữ trong thư, một cảm giác ngèn ngẹn, chua xót dâng trào lên trong lòng cậu.
Đoạn thư viết: “ Gửi ba mẹ của con, người đã sinh con ra trên cõi đời này và cho con có những ngày tuổi thơ thật đẹp dù khốn khó và không trọn vẹn nhưng con biết ba mẹ luôn yêu thương con, con tin vào điều đó. Tuy con không biết vì lý do gì mà ba mẹ đã bỏ lại con tại trại trẻ mồ côi? Và sau này ba mẹ có quay lại tìm con không? Nhưng con tin ba mẹ đã quyết định rất khó khăn và rất buồn khi phải rời xa con.
Tất cả những gì con có chỉ là những ký ức tuổi thơ rời rạc bên ba mẹ và hai người chị gái, con có thể quên mọi thứ, nhưng riêng về khuôn mặt của ba mẹ và hai chị lúc ấy không thể nào con quên được. Ba mẹ biết không, con vẫn thường mơ thấy ba mẹ và hai chị, mơ thấy gia đình mình vui vẻ sống bên nhau, dù chỉ là giấc mơ nhưng không hiểu sao con lại chảy nước mắt trong những giấc mơ hạnh phúc ấy.
Rồi một ngày con được đưa đến nước Mỹ xa xôi này. Kỷ vật duy nhất con còn có được là tấm ảnh buồn bã của con chụp cùng với ba mẹ tại trung tâm trẻ mồ côi với bảng tên trước mặt. Con trông giống như một tù nhân nhí, ngơ ngác không hiểu mình đang bị tội gì. Khi con đến nước Mỹ này, thật may mắn, con đã được một gia đình tử tế nhận nuôi. Ba mẹ nuôi thương con lắm nhưng ba mẹ biết không, dù con lớn lên giữa một gia đình tuyệt vời, nhưng con phải thừa nhận rằng con không thích cái thực tế mình là con nuôi.
Con phải mất một thời gian dài để chấp nhận mình là con nuôi và là người Việt Nam. Một phần của sự chấp nhận này khiến con muốn đi tìm lại ba mẹ. Trong phần lớn thời niên thiếu của mình, con chỉ muốn có mái tóc nâu hoặc vàng, một đôi mắt xanh và một chiếc mũi thật cao, thật to để giống những người khác. Cho dù con không cho rằng mình đẹp trai hơn với diện mạo ấy. Con luôn biết con là con nuôi. Không quá khó để nhận ra điều này, mọi người nhắc nhở con mỗi ngày qua những cái nhìn và bình phẩm hiếu kỳ.
Con không biết cuộc đời của con sẽ như thế nào nếu con ở lại Việt Nam. Tất cả những gì con biết là cuộc sống mà con có ngày hôm nay, và con muốn cảm ơn ba mẹ đã tham dự vào đó, vì sự tham gia của mẹ đã khởi đầu cho hành trình tuyệt vời đến với cuộc đời này của con. Con hi vọng một ngày nào đó ba mẹ có thể nhìn thấy con và cũng có những xúc cảm tương tự. điều quan trọng nhất con muốn chuyển đến ba mẹ là: Cuộc đời con đã được xoay chuyển tốt. Dù tình trạng của ba mẹ lúc đó như thế nào, thì ba mẹ cũng đã làm những gì mà ba mẹ cảm thấy tốt nhất cho cả con và cả ba mẹ. Con không oán hận hay giận hờn gì ba mẹ đâu. Con xem việc làm con nuôi như là cơ hội thứ hai, để sống một cuộc đời mà ba mẹ đã muốn con được sống từ khi sinh con ra.
Con đã từng về Việt Nam tìm kiếm ba mẹ nhưng tấm ảnh trắng đen đã mờ nhạt chụp cùng ba mẹ, cùng với những ký ức ấu thơ con có được, không đủ để giúp con có thể tìm được ba mẹ. Nhưng con vẫn hi vọng. Trong cuộc sống hi vọng luôn khiến người ta cố gắng hơn, mạnh mẽ hơn, có niềm tin hơn và hạnh phúc hơn. Ba mẹ biết không con đã cầu nguyện với Chúa rất nhiều, con mong một ngày đó Chúa sẽ cho con đoàn tụ với gia đình của mình, được gặp lại ba mẹ và hai chị, con muốn được ôm mọi người vào lòng thật chặt và nói rằng con rất ổn và con sống rất tốt, chỉ có điều là con luôn nhớ mọi người mà thôi.
Nhưng ba mẹ ơi! chắc con không thể thực hiện được mơ ước ấy nữa rồi, vì con biết sức khỏe của mình và con biết con sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa, để có thể về tìm lại ba mẹ. Con không oán trách Chúa đã an bài như thế đâu vì con biết mọi sự sắp đặt của Ngài đều có một lý do riêng. Ngài đã cho con may mắn được đến sống ở một đất nước văn minh, có được ba mẹ nuôi yêu thương, có được cậu bạn thân là Hiếu. Nhân tiện đây con cũng muốn kể cho ba mẹ nghe về người bạn thân duy nhất của con trên đất Mỹ này, đó là Hiếu. Hiếu luôn đồng hành và cùng con chia sẽ những vui buồn, cùng lớn lên và trãi qua những ngày tháng chán chường khủng hoảng, mất định hướng trong những ngày đầu ở Mỹ.
Con hi vọng Hiếu sẽ được may mắn hơn con, Hiếu sẽ tìm gặp lại ba mẹ của mình, và được ôm họ vào lòng. Con biết dù Hiếu chưa bao giờ có ý định tìm kiếm họ, vì một lý do cậu nghĩ rằng họ đã bỏ rơi cậu ấy. Nhưng trong tận sâu trong đáy lòng cậu ấy vẫn muốn được gặp lại họ. Con có thê nhận ra điều đó qua ánh mắt của cậu ấy. Hiếu vẫn còn cả một quãng thời gian dài để tìm kiếm và hi vọng.
Con biết rằng lá thư này con viết cũng sẽ chẳng bao giờ ba mẹ sẽ đọc được nó đâu, nhưng con vẫn cứ viết như những gì mà nỗi lòng của con muốn nói với ba mẹ biết đâu một điều kỳ diệu gì đó sẽ đến. Và cũng biết đâu một ngày nào đó, tại một nơi nào đó ở thiên đường, con sẽ được gặp lại ba mẹ và hai chị. Con vẫn luôn tin là như vậy. Con sẽ đi trước và chờ mọi người ở nơi thiên đường ấy nhé. Cuối cùng con cũng chỉ muốn nói là con luôn yêu ba mẹ và hai chị, cầu Chúa sẽ luôn che chở cho gia đình mình.
Con của ba mẹ Nguyễn Văn Long”
Từng giọt nước mắt của Hiếu rơi lấp lánh trên lá thư. Từng câu chữ của Long như một vết khắc chạm vào tâm tư của Hiếu. Giờ thì Hiếu hiểu rằng cậu cần gì và cái gì cậu nên làm.
Bốn tháng sau thì Hiếu chuyển công tác, cậu rời khỏi Dallas và chuyển đến New york để làm việc. Cậu phải xa thành phố này nơi cậu đã gắn bó, lớn lên, có biết bao kỷ niệm dù vui dù buồn. Cậu chọn cách rời xa thành phố này cũng là cách chạy chốn khỏi nỗi buồn. Đến bây giờ Hiếu vẫn chưa thật sự tin rằng Long đã ra đi. Ngày hôm nay Hiếu trở lại nơi đây thăm lại ba mẹ nuôi rồi đến thăm mộ Long. Ngồi trước mộ Long Hiếu kể cho cậu nghe về cuộc sống trong hai năm qua của cậu. Ở New york lạnh lắm, cuộc sống ở đó luôn hối hả.
Bây giờ cậu đã được thăng chức lên làm trưởng phòng. Công việc hiện tại rất tốt. Đặc biệt trong hai năm qua Hiếu đã không ngừng làm tất cả những gì có thể để tìm lại người thân của mình và tìm cả người thân của Long. Cậu hi vọng có thể gặp lại người thân của mình để hỏi họ xem có thật là họ đã bỏ rơi cậu không? Sau những mất mác của cuộc đời thì giờ đây Hiếu đã học được bài học yêu thương và tha thứ từ Long.
Cuộc đời này quá ngắn ngủi cho những giận hờn, oán trách. Đặc biệt hơn đó lại là ba mẹ cậu, người đã sinh ra cậu trên cõi đời này. Còn về người thân của Long thì Hiếu muốn đưa cho người thân của Long lá thư mà Long đã viết cho họ cùng với một số kỷ vật của Long xem như là Long cũng đã được đoàn tụ với người thân, được về với cội nguồn mặc dù Long đã về thiên đường vĩnh hằng với Chúa.
Hiếu đã nổ lực nhờ báo chí Việt Nam đưa tin, cung cấp những kỹ vật, mô tả những chi tiết về thời thơ ấu, mà cậu còn nhớ mờ nhạt của bản thân mình, cộng với những ký ức tuổi thơ của Long mà anh đã kể cho cậu nghe nhiều đến mức cậu đều nhớ như in trong đầu. Cậu còn thuê cả thám tử điều tra giúp cậu. Và bây giờ dường như đã đến lúc Chúa đáp lại lời nguyện cầu. Hiếu đã nhận được tin có vài gia đình xem tin tức trên báo và các chi tiết miêu tả và tên họ, cộng với tấm hình thì rất giống với người em trai đã thất lạc hơn hai mươi năm của họ là Long.
Thám tử cũng điều tra được có hai gia đình cũng có gửi con ở trại trẻ mồ côi, rồi thất lạc con đến giờ theo những gì tên họ mà cậu miêu tả thì rất giống với con của họ. Những tia hy vọng le lói cho Hiếu. Cậu cảm thấy rất vui mừng. Hiếu sẽ quay về Việt Nam tìm gặp những người có thể là ba mẹ mình cũng như Hiếu sẽ thay tìm gặp những người có thể là người thân của Long. Đó là những gì mà Hiếu còn có thể làm cho Long, người bạn thân nhất trong cuộc đời này của mình.
Tạm biệt ba mẹ nuôi, tạm biệt người bạn thân đang mỉm cười nhìn Hiếu ở nơi thiên đường xa ấy. Hiếu trở về lại New York thu xếp công việc sau đó bay về Việt Nam để tìm gặp những người nhận là người thân của Long. Có vẻ như đây là một chuyến đi dài ngày của cậu. Đến Việt Nam Hiếu tìm gặp hai gia đình mà có thể là ba mẹ của mình trước. Gia đình đầu tiên thì chỉ còn người cha già cùng người con trai lớn còn người mẹ thì đã mất mấy năm rồi. Người cha tuy đã già lắm nhưng ông vẫn còn rất minh mẫn để kể lại những kỷ niệm lúc nhỏ với con mình.
Có những ký ức Hiếu cảm thấy thân quen, có những ký ức thì cậu dường như chẳng nhớ hay chẳng ấn tượng gì. Hiếu có cảm giác là họ không phải gia đình mình nhưng cậu vẫn thử xét nghiệm DNA xem thế nào. Còn về gia đình thứ hai thì còn đủ cả cha lẫn mẹ chỉ mới ngoài sáu mươi, cùng với người con trai cả cũng trạc gần ba mươi mấy tuổi, nhiều chi tiết gần giống với ký ức của Hiếu hơn và cậu hi vọng rằng đây thực sự là gia đình mình.
Tuy nhiên kết quả DNA lại làm Hiếu vô cùng thất vọng vì không ai là người thân của cậu hết. Dù buồn và hụt hẩng nhưng Hiếu cũng biết rằng với những hồi ức mong manh về tuổi thơ của cậu thì cũng thật khó để cậu tìm lại gia đình mình. Ba mẹ cậu cũng không biết chừng có còn ở nơi này nữa hay không hoặc là cũng đã đến sống ở một đất nước xa xôi nào khác? Gạc qua những thất vọng của mình, Hiếu đến gặp những người mà có thể là người thân của Long.
Một lần nữa Hiếu lại cảm thấy thất vọng khi mà những gì mà họ kể hay những tư liệu hình ảnh lại không trùng khớp với những gì mà Long kể với cậu. Tất cả những gia đình đó đều không phải người thân của Long. Mang tâm trạng thất vọng nặng nề dự định trở về Mỹ thì Hiếu lại nhận được một thông tin rằng có một gia đình lại nhận có thể là người thân của Long. Hiếu định rằng gặp họ một lần nữa rồi trở về Mỹ cũng không sao, dù cuộc gặp này cậu nghĩ cũng chỉ là một sự nhầm lẫn nữa thôi.
Hiếu bước vào nhà của họ là một ngôi nhà cũng khá khang trang với những mãnh vườn trồng đầy cây ăn trái ở Củ Chi. Bước ra tiếp Hiếu là một người phụ nữa trạc gần bốn mươi và sau đó là một phụ nữ cũng tầm ngoài ba mươi, đẩy một bà cụ trạc gần bảy mươi tuổi, đang ngồi trên xe lăn, tuy vậy bà cụ trông vẫn còn rất khỏe mạnh nhưng đôi chân bà không đi lại được. Trên tay bà cụ cầm một quyển album hình đã cũ.
Hiếu lễ phép chào hỏi bà cụ và mọi người trong gia đình. Hiếu vừa ngồi xuống thì bà cụ đã lấy trong album hình ra vài tấm hình trắng đen đã rất cũ kỹ nhưng vẫn còn thấy rõ gương mặt của những người trong tấm hình, và trong đó đó có ảnh một đứa bé và một người phụ nữ trông rất giống trong tấm hình mà Long chụp lúc còn bé ở trại trẻ mồ côi. Hiếu lấy vội tấm hình ra và so sánh thì là giống chính xác không khác vào đâu được. Chưa kịp cất câu hỏi thì người phụ nữ trẻ đẩy xe lăn đã cất tiếng nói:
- Chắc cậu ngạc nhiên lắm vì những tấm hình này. Tôi là Ngọc chị ba của Long, còn kia là chị hai của Long, còn đây là mẹ của chúng tôi. Ba chúng tôi đã mất từ rất nhiều năm về trước rồi. Mấy tuần trước mấy đứa con của chị hai tôi có đọc báo và lên mạng xem tin tức thì thấy có đăng thông tin tìm người thân và có đăng kèm tấm hình chụp của Long hồi bé với mẹ tôi.
Mấy đứa cháu trong nhà hay xem qua album hình trong nhà nên thấy tấm hình là tụi nó nhận ra ngay, hơn nữa nó cũng được bà nó và chúng tôi kể về người cậu út bị thất lạc ở trại trẻ mồ côi lúc nhỏ nên tụi nó cũng biết. Tụi nó báo cho mọi người trong nhà biết và mở báo lên cho chúng tôi xem, xem qua hình ảnh và thông tin chúng tôi càng khẳng định đó là đứa em trai bị thất lạc của chúng tôi.
Mẹ Long nhìn Hiếu rồi bảo cậu đưa cho ba mượn tấm hình lúc bà chụp trong trại trẻ mồ côi với Long trên tay mà bỗng dưng đôi mắt bà rưng rưng. Bà từ tốn kể lại lý do vì sao bà để Long ở lại trại trẻ mồ côi: Ngày ấy đất nước sắp giải phóng nhưng cuộc sống của người dân vô cùng khó khăn. Gia đình bà lúc trước ở trong một con hẻm trong quận nhất ở Sài gòn. Lúc đó chồng bà lâm bệnh nặng lắm, bà hàng ngày phải đi bán hàng rong ở chợ Bến thành để kiếm tiền lo cho gia đình và trị bệnh cho chồng. Hai người con gái thì phải đi bán báo để phụ tiền giúp mẹ trị bệnh cho ba.
Cuộc sống thiếu thốn bữa đói, bữa no. Dường như số phận nghiệt ngã cứ ập tới vùi dập gia đình bà, khi một ngày kia nhà của bà bị một cơn giông lớn làm sập cả căn nhà . Cả gia đình bà phải nhờ những nhà hàng xóm tốt bụng dựng tạm cho một cái chòi để ở tạm. Chồng thì đang bệnh nặng, nhà thì sập, buôn bán thì bấp bênh bữa đói bữa no. Không đành lòng nhìn mấy đứa con chịu khổ.
Đặc biệt là Long, đứa con út còn nhỏ trong nhà, không đành lòng nhìn Long đói khổ vì Long còn quá nhỏ nên bà đi đến một quyết định đau lòng là tạm thời gửi Long tại trại trẻ mồ côi Tâm Ái, để những người trong đó chăm sóc. Dù không đành lòng, dù biết Long sẽ buồn sẽ tủi nhưng ít ra thì Long sẽ không chịu đói, chịu khổ trong cái cảnh khốn cùng như vậy. Sau đó bà đưa Long đến trại trẻ mồ côi và gửi Long trong đó, bà nghĩ rằng đó chỉ là tạm thời thôi.
Bà sẽ cố gắng đi làm trị bệnh cho chồng bà khỏe lại, rồi lại đón Long về lại với gia đình, nhưng bà không ngờ chỉ vài ngày ngắn ngủi sau bà đến thăm Long thì Long đã không còn ở đó nữa mà đã được đưa lên máy bay rời khỏi Việt Nam, mà đưa đến đâu thì bà không hề hay biết và cũng từ đó bà chẳng còn tin tức gì của Long nữa. Bà cố hỏi thăm các nhân viên ở trại trẻ đã chăm sóc Long thì họ chỉ bảo rằng cậu và nhiều đứa trẻ khác đã được đưa lên máy bay rời khỏi Việt Nam, nhưng chẳng biết là những đứa bé đó sẽ đưa cậu đến đất nước xa lạ nào. Bà đã khóc vì nhớ con, bà dằn vặt rất nhiều. Nỗi đau ấy vẫn canh cánh dai dẵng theo bà suốt bao nhiêu năm nay.
Giờ đây cái giây phút ngỡ được đoàn tụ gặp lại đứa con mà bao nhiêu lâu mình thương nhớ thì bà lại hay tin Long đã ra đi mãi mãi. Trái tim của người mẹ, của những người chị gái, của những dòng máu đào ruột thịt lại buốt lên vì đau xót. Từng tiếng khóc, giọt nước mắt thương đau chảy xuống vì xót xa, đôi mắt khô của Hiếu cũng nhòe cay những dòng lệ đắng. Hiếu trao lại lá thư, những kỹ vật của Long lại cho gia đình Long. Từng dòng nước mắt, từng tiếng khóc lại càng đau đớn hơn theo từng câu chữ trong dòng thư.
Một bầu không khí đau buồn nặng trĩu lên gia đình nhỏ. Nén nỗi buồn và bình tỉnh Hiếu khuyên mọi người hãy bớt đau thương vì Long không muốn thấy những người thân yêu của cậu phải buồn. Ở nơi xa đó chắc Long đã cảm thấy mãn nguyện vì cậu biết rằng gia đình cậu luôn thương nhớ cậu và chưa bao giờ muốn bỏ rơi cậu hết. Ít ra thì giờ đây lá thư và những kỷ vật của Long cũng đã đến được với gia đình Long thì cũng như Long đã đoàn tụ được với gia đình. Biết đâu nơi thiên đường kia Long đã được gặp lại cha của cậu rồi.
Còn về Hiếu khi nào cậu có thể được gặp lại gia đình cậu đây? Suốt quãng đời này có cơ hội nào cho Hiếu được gặp lại người thân của mình để một lần nữa gọi tiếng ba ơi hay mẹ ơi không? Câu trả lời chắc chỉ có Chúa biết. Bất chợt giọt nước mắt buồn tủi lại lăn dài trên trên gương mặt của Hiếu, trong vạt nắng mùa Thu.
Tác giả: Nguyên J
|
|
|
Post by GH. Phạm Hùng on Sept 29, 2016 21:36:53 GMT -8
Academic Dean/G.H.
Quý Giáo sư và các bạn Sinh viên thân mến! Chúng ta đang bước vào mùa Tạ Ơn; tác giả Tôn Cao Thiên có một truyện ngắn xin gửi đến Diễn Dàn Sinh Viên của VBI.
HÃY CÒN CƠ HỘI
Tác giả: Tôn Cao Thiên Hôm ấy, trời giữa trưa của mùa hè vùng Trung-Đông không khí thật oi bức khó chịu, mùi phân heo bốc lên nồng nặc làm kích thích đàn rùi xanh rủ nhau bay về mỗi lúc một nhiều, Si-môn từ sáng đến giờ không nghỉ tay mà vẫn chưa tắm hết được cho một phần tư đàn heo, thế mà nó chưa có một chút gi để bỏ vào bụng, nó mệt mỏi lê đôi chân bủn rủn tìm đến bóng mát của một cây chà-là gần bên giếng nước để ngồi nghỉ mệt. Trong lúc đang đói bụng và mệt lả thì Si-môn thấy thằng bạn A-bên đang chạy đến chỗ nó ngồi hai tay ôm lấy một vật gì đó trong vạt áo của nó. Khi đã đến gần bên Si-môn, A-bên nét mặt hớn hở nhưng đầy vẻ bí mật, nó ngồi xuống bên cạnh Si-môn và nói nhỏ cho thằng Si-môn vừa đủ nghe: anh Si-môn, khi nãy ông chủ bảo tôi mang mớ đậu bị thiêu ra cho heo ăn, và tôi đã nhanh tay giấu lại một ít, anh hãy ăn một ít đi cho đỡ đói. Si-môn không kịp nói lời cảm ơn, nó liền đưa tay nạm lấy một nắm bỏ vào miệng ăn ngấu nghiến như một con heo đang đói. A-bên nhìn cách ăn của thằng Si-môn và cuời thầm trong bụng rồi nó lên tiếng: anh Si-môn biết không? nhiêu khi tôi cảm thấy cảm ơn Thượng Đế vì Ngài không cho tôi được cao to giống như anh; Si-môn nghe bạn mình nói vậy thì miệng nó ngừng nhai với nét mặt tò mò và hỏi lại A-bên: tại sao anh nói vậy? A-bên chậm rãi trả lời bạn: tại vì, anh to con nên cơ thể anh cần nhiều thức ăn, còn tôi nhỏ con nên tôi chịu đó giỏi hơn anh, thấy anh ăn giống…, thằng A-bên nói đến đó thì ngừng lại; thằng Si-môn nuốt vội mớ đậu thiêu trong miệng rồi hỏi lại, anh, nói tôi giống gì hả? thì, thì giống mấy con heo, thằng A-bên trả lời. Vừa nói đến đó thì cả hai đứa Si-môn và A-bên đều đứng bật dậy như đang ngồi trúng gai nhọn; lúc này phía trước mặt hai đứa là tên quản gia to con với cái bụng bự và nuớc da ngâm ngâm trông như một con hà mã, hắn ta đang cầm cái roi đánh heo trong tay. Hắn ta nhìn A-bên và nói: mầy sai rồi A-bên, đúng ra mầy phải trách Thượng Đế của mầy vì đã cho mầy một thân hình bé nhỏ như vậy, bởi vì mầy sẽ không chịu được cái roi này của tao đâu; thì ra nãy giờ tên quản gia đã nghe hết câu chuyện của hai đứa ở đợ, hắn nói tiếp, tại sao mầy dám ăn cắp đậu của heo ra đây ăn hả? Tên quản gia đưa chân đá văng mớ đậu thối trên tay của thằng A-bên và cầm roi quất túi bụi vào mặt, vào lưng của nó cách không thương tiếc; thằng Si-môn thấy vậy chạy đến chen lưng vào đỡ đòn thế cho bạn, nó liền bị quất mấy roi vào lưng rướm máu. Tên quản gia thấy thằng Si-môn đỡ đòn thế cho bạn thì thôi không đánh nữa. Si-môn quay lại nhìn tên quản gia và nói như van xin: anh hãy vì tình bạn của hai chúng ta trước đây mà tha cho anh A-bên. Khi nghe đến hai chữa “tình bạn” thì tên quản gia lại nổi nóng và chỉ cây roi vào mặt Si-môn mắng: ai là bạn của mầy hả thằng chăn heo kia? nói đoạn, hắn quất roi vào mặt Si-môn túi bụi và đưa chân đá vào bụng làm Si-môn đau đến nỗi phải té quỵ xuống đất.
Khi tên quản gia đã đi rồi, Si-môn mới cố gắng lấy chút sức lực còn lại cùng với sự giúp sức của A-bên để ngồi dậy. Sau khi cả hai đã lấy lại được sự bình tĩnh, thằng A-bên với nét mặt buồn rầu và tự trách: hình như ai liên hệ đến tôi đều bị họa lây. Nghe bạn nói vậy, thằng Si-môn liền đỡ lời, sao anh lại nói vậy, anh là một người tốt. Nghe thằng Si-môn nói như vậy A-bên nó càng có vẽ buồn hơn và tỏ ra khó chịu. Thấy thái độ của thằng A-bên bất thường, Simon vội nói: nếu tôi có nói gì sai xin anh hãy bỏ qua cho tôi nhé. Thằng A-bên im lặng mốt chút rồi trả lời: không phải, anh không có nói gì sai cả; Si-môn hỏi tiếp: chúng ta là bạn làm việc chung đã lâu mà tôi không biết vì hoàn cảnh nào mà anh đã đến đây? có phải anh có tâm sự gì mà không muốn nói không? A-bên im lặng một lúc rồi trả lời: thật ra tôi không phải là người ở xứ này, tôi đến từ xứ Pha-léc-tin, tôi là người Giu-đa, tôi từng có gia đình và vợ con, tôi có một người mẹ rất thương yêu tôi, cuộc đời của bà rất nhiều đau khổ, bà đã hy sinh rất nhiều để nuôi tôi khôn lớn và thành đạt, khi tôi có đứa con trai đầu lòng thì mẹ tôi về ở với chúng tôi, bà giúp lo cho con tôi và mọi việc trong nhà; nói đến đó, A-bên bèn dừng lại, hai mắt ươn ướt nước mắt và nói tiếp, con trai tôi cũng rất quý bà nội của nó. Nhưng, vợ tôi không hài lòng với việc mẹ tôi sống trong nhà và thường hay than phiền về mẹ tôi với tôi; vì muốn làm vợ tôi vui lòng nên tôi tỏ ra gay gắt với mẹ tôi cách vô lý, mẹ tôi rất buồn nhưng bà vẫn chịu đựng; một ngày kia vợ tôi xúc phạm mẹ tôi ở trong đền thờ làm bà rất buồn, nhưng khi về đến nhà thì tôi lại bênh vực vợ tôi và mắng mẹ tôi là tại sao lại gây chuyện trong đền thờ rồi tôi đã đuổi bà ra khỏi nhà. Nói đến đó, A-bên dừng lại và đưa tay lau hai dòng nước mắt trên gò má.
Nãy giờ nghe nghe câu chuyện của thằng bạn mà Si-môn như ngồi trên gai nhọn, nó cảm thấy từng lới nói của thằng bạn là những cây gai nhọn đang châm vào lòng mình. Si-môn lên tiếng hỏi: vậy tại sao anh không đến xin lỗi mẹ của anh? A-bên quẹt ngan dòng nước mắt và trả lời: không, đã không còn cơ hội nữa. Si-môn trả lời bạn nghe rất triết lý, tại sao không, tôi nghĩ mẹ anh sẽ tha thứ cho anh, không có người mẹ nào giận con mãi đâu. A-bên ngẩn đầu lên, nhìn thẳng vào mặt Si-môn và nói tiếp, anh biết không? khi me tôi rời khỏi nhà tôi thì chứng bệnh đau tim của bà càng nặng thêm vì quá tổn thương do tôi gây ra và phải sống một mình không nơi nương tựa; tôi được tin bà bị bệnh nhưng không quan tâm gì đến bà; A-bên nói tiếp: anh biết là sau khi mẹ tôi rời khỏi nhà chúng tôi thì con trai tôi rất nhớ bà nội nên khóc và không chịu ăn, một hôm người vú nuôi vì quá bực bội và lỡ tay làm rớt cháu từ trên lầu xuống đất và cháu đã… A-bên dừng lại và ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thấy vậy, thằng Si-môn vỗ vai bạn và an ủi, tôi xin chia buồn với anh, anh A-bên, anh đừng buồn vì chuyện cũng đã qua rồi. Aben lại nất lên và nói tiếp, anh biết không? khi mẹ tôi nghe tin đó, vì quá thương cháu nội và bà đã đứng tim và qua đời.
Bầu không khí đang oi bức giờ lại càng trở nên nặng nề đến khó thở, A-bên như lấy lại được thăng bằng và nói tiếp: cũng từ ngày con trai và mẹ của tôi ra đi thì vợ chồng tôi luôn gây gổ, và cuối cùng thì vợ tôi chủ động rời bỏ tôi, vì quá buồn chán nên tôi bỏ bê công việc và sau đó tôi bị đuổi việc, nhà cửa bị tịch thu, và tôi phải rời bỏ quê hương đến đây. Nói đến đây, A-bên chồm dậy nắm lấy áo của thằng bạn và nói trong sự thống hối tột cùng: anh biết không? hậu quả của tôi ngày hôm nay là vì tôi đã phạm Điều răn thư năm của Chúa tôi, tôi đã không hiếu kính mẹ tôi, và tôi đã gián tiếp giết chết mẹ tôi đó anh Si-môn àh. A-bên từ từ bỏ áo của Si-môn ra và nói: có lẽ anh không hiểu đâu, đối với người Giu-đa chúng tôi thì hiếu kính cha mẹ là một điều răn không thể vi phạm, vậy mà chính tôi đã gián tiếp giết chết mẹ tôi; tôi là một kẻ có tội, nói đến đó thì A-bên gục mặt xuống đất: ôi, Chúa ơi, xin Chúa hãy tha tội cho con.. nó ôm mặt khóc trong sự thống hối.
Đến lúc này thì Simon không thể chịu đựng được nữa nên đưa tay đỡ bạn ngồi dậy và nói như cũng muốn thú tội: anh đã lầm, tôi hoàn toàn hiểu được những gì mà anh đang cảm nhận, vì chính tôi cũng là một người Giu-đa và chính tôi cũng là người đã vi phạm điều răn của Chúa. Anh có biết không? Mẹ tôi mất sớm; Tôi vẫn còn nhớ rất rõ, cha tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện về các thánh tổ trước khi tôi đi vào giấc ngủ, có những mùa đông ông phải chịu lạnh vì nhường cái mền long thú của ông cho tôi để tôi đủ ấm. Vậy mà cách đây không lâu, tôi đã làm cha tôi đau lòng. A-bên đã ngừng khóc và lắng nghe Si-môn nói trong sự ngạt nhiên. Si-môn nói tiếp: vì nhiều lần tôi đòi chia gia tài để đi làm ăn nhưng không được cha tôi cho phép, hôm đó tôi đã rất giận cha tôi và nói với ông, “con ước gì cha chết đi bây giờ để con lấy phần gia tài của con và sống theo cách riêng của con, con quá chán ghét cuộc sống với những con chiên này rồi.” Từ khi tôi nói điều đó thì cha không đã không nói, không ăn trong ba ngày, và cuối cùng thì ông hỏi tôi muốn lấy điều gì? tôi liền nói, con muốn lấy tất cả vàng bạc và tiền mặt, còn ruộng vườn, chiên, bò thì của anh hai. Thằng Si-môn dừng lại một lúc rồi nói tiếp, anh có biết không A-bên? khi tôi mới đến đây thì thằng quản gia khi nãy đã gọi tôi là ông chủ, nhưng tôi đâu ngờ mình đã bị hắn lừa gạt, hắn đưa tôi vào con đường trụy lạc, ăn sài hết toàn bộ số tiền của cha tôi cho, và hắn đã trả ơn tôi bằng cách giới thiệu tôi chăn heo tại đây. Nói đến đây thì Si-môn ngồi bệt xuống đất trong tuyệt vọng.
Nãy giờ thằng A-bên ngồi lắng nghe hết câu chuyện rồi mới lên tiếng hỏi: tại sao anh vẫn còn ngồi đây? câu nói của thằng A-bên làm cho thằng Si-môn đứng bật dậy vì tưởng tên quản gia lạy đến, nhưng A-bên cũng đứng dậy và nắm áo Si-môn và nói: tôi thì không còn cơ hội để làm lại nhưng anh thì khác, tại sao anh không mau quay về xin lỗi cha của anh? anh muốn mình sẽ ân hận cả đời như tôi hay sao? Nghe bạn nói như vậy, Si-môn như người vừa được kéo lên khỏi vực thẳm, nó vội đứng dậy và hét lớn, đúng vậy, cảm ơn anh A-bên, tôi sẽ về xưng tội cùng cha tôi, vì tôi đã phạm điều răn của Chúa và phạm lỗi với cha tôi, tôi chỉ xin cha nhận tôi làm tôi tớ thôi thì tôi cũng sẽ rất vui mừng. Nói đoạn, Si-môn chia tay với bạn và ra đi như chạy vì sợ sẽ không còn kịp.
Đi được một đoạn xa, Si-môn như quên một điều gì đó rồi nó quay trở lại trang trại… thấy thằng A-bên đang cuối xuống chà rửa cho mấy con heo là công việc mà đúng ra nói phải làm, Si-môn đến bên cạnh và vỗ lên vai bạn, thằng A-bên giật nẩy người vì tưởng là thằng quản gia, nói quay lại thấy không phải là tên quản gia mà là Si-môn nó trố mắt và ngạc nhiên hỏi: tại sao anh lại quay lại làm gì? Thằng Si-môn từ tốn trả lời: cha tôi có một trang trại rất lớn, tôi tin là ông ấy sẽ cần một người đầy tớ tốt như anh. Thằng A-bên đá vào hong con heo đang đứng làm nó kêu lên một tiếng lớn… Cả hai thằng bạn cùng rời khỏi trang trại và lên đường tiến về Si-ôn. Hết.
Bài học:
Trong mùa Tạ ơn này chúng ta hãy biết cảm ơn những tình yêu mà người thân đang giành cho chúng ta, đừng để đến khi mất đi rồi mới biết quý trọng thì đã muộn. Một tình yêu lớn lao mà nhiều người hay xem thường và đánh mất cho đến khi họ nhận ra thì đã quá muộn, đó chính là tình yêu của Chúa Giê-xu Christ. Amen!
|
|
Deleted
Deleted Member
Posts: 0
|
Post by Deleted on Sept 30, 2016 11:20:18 GMT -8
ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU
Một cốc trà nóng hợp với buổi chiều mùa đông khiến người viết thấy thật sảng khoái; tôi mỉm cười và bắt đầu câu chuyện với cô gái phục vụ người da trắng có thân hình tròn trịa nhưng rất lanh lẹ "thời tiết hôm nay không tệ lắm"; "dạ đúng như vậy, nhưng hôm nay có gió nhiều quá bà nhỉ!" cô ấy cười đáp lời tôi; Tôi lại đùa tiếp "đi bộ coi chừng bị gió cuốn bay". Quả thật, trời hôm ấy không lạnh nhưng gió đông thì cứ thổi từng luồn, cuốn bay chầm chậm những bụi cỏ dại nhỏ đã bị khô, trốc gốc bên ven đường.
Ở cái xứ có khí hậu nóng lạnh rõ rệt này làm cho chúng tôi rất dễ bắt chuyện nhau bằng những câu nói như vậy! Trong góc phòng có một đôi vợ chồng khá lớn tuổi, họ ngồi đó uống trà sữa nóng và cùng hoà vào câu chuyện với chúng tôi, người đàn ông lên tiếng "Thời tiết và quang cảnh ở đây thật tuyệt, tôi thích nơi này". Tôi hơi nghiên người về phía họ để hỏi chuyện "ông bà đang sống ở khu này à?". "Không, chúng tôi vừa đến đây vào chiều hôm qua". Bà tiếp lời "Chúng tôi thỉnh thoảng đến Silver Lake để nghỉ mát cuối tuần"; "Vậy điều gì thu hút ông bà thường đến đây nghỉ mát?" tôi hỏi lại; "khí hậu ấm áp, quang cảnh xinh đẹp và đặc biệt là cảm giác thư thái, an lành khi chúng tôi cùng đi dạo trên bờ hồ", ông cười thật tươi và trả lời như vậy.
Silver Lake là địa danh rất nhỏ thuộc thành phố Helendale, miền Nam California của nước Mỹ. Đôi khi nói thành phố Helendale rất ít người biết đến nhưng nghe Silver Lake thì lại có nhiều người quen thuộc, bởi nơi đây tuy là một thị trấn rất nhỏ nhưng là một khu nghỉ dưỡng được nhiều người ưa thích, vì nó có khí hậu nóng ấm so với những miền khác trong nước Mỹ và được bao quanh bởi hai cái hồ nước trong xanh, hiền hoà, rất thơ mộng.
Đó là North Silver Lake và South Silver Lake. Nơi từng đàn vịt trời bơi lội nhộn nhịp trên mặt hồ làm thành cảnh quang thật sinh động. Hàng ngày từ sáng sớm chúng bay đi ăn đâu đó và mỗi chiều về chúng bay trở lại nhiều như muốn phủ kín cả mặt hồ rộng lớn trông rất đẹp. Người viết thích nhất là khi chiều tà, ngồi trên ghế đá bên bờ hồ nhìn chúng bay về, đôi cánh của chúng xoè ra và lượn vài vòng trước khi đáp đậu xuống mặt hồ; nhìn gần bên trong cánh của chúng, ta thấy những màu xanh và đen lấp lánh xen kẻ nhau trông tuyệt đẹp; đôi khi chúng dàn từng đàn bay theo những hình ảnh như những vũ điệu tuỳ theo sự tưởng tượng của người nhìn, khiến cho bất cứ ai đang nhìn thấy cũng phải thốt lên: "Ôi! Sao mà đẹp đến thế!".
Chúng ta không lạ gì khi nghe ai đó mô tả về những đàn chim én chao lượn hay phượng hoàng tung cánh, nhưng ít khi chúng ta hình dung được những chú vịt trời lại đẹp đến thế kia(?). Quả là Thượng Đế có ý định quá tốt lành, quá tuyệt vời trong sự sáng tạo của Ngài. Sự tốt lành, toàn hảo bao quanh và hiện diện khắp trên thế giới này khi Ngài sáng tạo chúng "Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành" (STK 1:31); Và ở đây – Silver Lake này, một lần nữa đã minh chứng điều đó. Cũng qua hình ảnh của đàn vịt trời xoè cánh đáp đậu trên Siver Lake, khiến người viết thầm nhớ đến câu: "đất lành chim đậu". Silver Lake quả là mảnh đất lành để đàn chim trời đáp đậu, nhưng có phải là mảnh đất lành để gia tăng tín hữu mới cho Hội Thánh Chúa hay không? đó chính là câu hỏi đã từng khiến cho người viết trăn trở - là câu hỏi thôi thúc hành trình tâm linh của người viết…
Cũng như hầu hết các con cái của Chúa, người viết luôn ao ước Hội thánh Chúa ngày càng có nhiều tín hữu, ngày càng có nhiều người tin nhận Chúa Jesus làm cứu Chúa của mình. Làm sao để nơi này không chỉ là đất lành cho chim trời đến đậu, mà thật sự còn là mảnh đất lành cho những tâm hồn bị tổn thương, đất lành cho những tội nhân tìm về để được sự cứu rỗi, để ngày càng nhiều người tại đây trở thành Cơ Đốc Nhân. Để nhiều du khách đến đây không chỉ vì khí hậu nắng ấm và cảnh quang xinh đẹp, nhưng còn là vì nơi đây cho thấy có nhiều dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa. Dấu hiệu của sự bình an cho mọi người.
Cám ơn Chúa, Ngài cho người viết kiếm tìm câu trả lời cho vấn đề này qua sự hiện diện ngày càng sinh động của các Hội thánh Chúa trong khu vực này. Tham khảo tại en.wikipedia.org/wiki/Helendale,_California và tại www.facebook.com/Silver-Lakes-Association-Official, chúng ta biết được Silver Lake có diện tích 13.4 km 2 đất và 1.12 km 2 là hồ nước, với chỉ hơn 5.623 người dân (vào năm 2010) nhưng người viết biết có đến năm hội thánh; trong đó có hai hội thánh của người Hàn Quốc, toàn bộ tín hữu của Hội thánh Hàn Quốc là những gia đình người Mỹ gốc Hàn đang sinh sống ở thị trấn này; và ba hội thánh của người Mỹ, trong đó có khoản 90 % là người Mỹ trắng và 10% là những sắc dân còn lại.
Hầu hết người dân tại nơi đây đều biết Chúa; câu nói cửa miệng của họ khi tạm biệt nhau là "God bless you". Không nghi ngờ gì nữa, chính nhờ sự hiện diện của Chúa trong khu vực này mà một vùng sa mạt nắng nóng, quanh năm rất ít mưa (cả một năm qua chỉ có hai lần mưa rất nhỏ, lát đát ít hạt mưa không đủ thấm ướt đất) lại là khu vực đẹp, hài hoà cây xanh, hồ nước, chim trời, đời sống yên bình cho người dân và lại là khu nghỉ dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Thu nhập bình quân đầu người của Silver Lack năm 2010 là hơn 67.000 usd/năm (theo en.wikipedia.org/wiki/Helendale,_California. Thu nhập này là cao so với các bang khác trong nước Mỹ).
Chính nhờ sự hiện diện của Chúa, sự bảo vệ và ban phước lớn lao của Ngài mà vùng này đã đem đến sự an bình không riêng gì cho người dân địa phương, song còn đem đến sự an bình, thơ thới cho những du khách đến đây; quả là ân điển tuyệt vời của Chúa ban cho vùng này, giữa thời buổi đầy bất an vì những lo sợ như khủng bố, lo lắng về tính khí nóng nảy giữa những mối quan có thể xảy ra bạo hành, xô xát vào bất cứ lúc nào, đặc biệt là một nơi được sử dụng súng đạn tự do như nước Mỹ. Nhưng một Silver Lack yên bình, an lành và không hối hả vào bất cứ giờ nào trong ngày, là một thực tế cho thấy sự hiện diện sống động của Đức Chúa Trời…
Tách trà nóng đã cạn, chiều mùa đông ở Silver Lack xuống thật nhanh, người viết vội đứng lên để tản bộ trong gió đông nhưng không lạnh lẽo, mà lại nghe lòng ấm áp vì câu chào đáp lời của hai vị du khách ở bàn bên cạnh và của cô phục vụ trong quán "God bless you too!";
Đàn vịt trời dưới hồ nước kia hôm nay lại còn đẹp hơn mọi ngày! Tạ ơn Chúa! Tạ ơn sự sáng tạo hài hoà và kỳ vĩ của Ngài! Chúa thật là tốt lành! Xin Chúa tiếp tục ban cho chúng con biết góp phần gìn giữ những "mảnh đất lành"...
------------------------- Viết vào mùa đông năm 2015
|
|