|
Post by GH. Phạm Hùng on Oct 2, 2014 17:21:32 GMT -8
Academic Dean/G.H.
(Lu 24:50-53) 50 Kế đó, Ngài đem môn đồ đi đến nơi xung quanh làng Bê-tha-ni, giơ tay lên mà ban phước cho. 51 Đương khi ban phước, Ngài lìa môn đồ mà được đem lên trời. 52 Môn đồ thờ lạy Ngài rồi trở về thành Giê-ru-sa-lem, mừng rỡ lắm. 53 Môn đồ cứ ở trong đền thờ luôn, ngợi khen Đức Chúa Trời.
(Cong 1:9, 12-14) 9 Ngài phán bấy nhiêu lời rồi, thì được cất lên trong lúc các người đó nhìn xem Ngài, có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa... 12 Bấy giờ, các người đó từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem; núi ấy cách thành Giê-ru-sa-lem một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát. [†] Ước chừng một ki-lô-mét 13 Khi đã về đến, bèn lên một cái phòng cao kia, là nơi Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con của A-phê, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đe con của Gia-cơ thường ở. 14 Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đàn bà, và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Jêsus cùng anh em Ngài.
Trong hai phân đoạn Kinh Thánh ở trên có hai sự khác biệt về nơi Chúa Giê-su thăng thiên và nơi các môn đồ trở về sau khi Chúa Giê-su thăng thiên.
Sách Lu-ca ký thuật: lúc Chúa Giê-su thăng thiên là ở "xung quanh làng Bê-tha-ni" (câu 50); khi các môn đồ trở về thành Giê-ru-sa-lem thì "vào đền thờ" (câu 53)
Sách Công Vụ ký thuật: lúc chúa Giê-su thăng thiên không rõ địa điểm, tuy nhiên CV nói "các người đó từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem"(không phải Bê-tha-ni)(12); khi các môn đồ trở về thì không phải vào đền thờ tại Giê-ru-se-lem như sách Lu-ca đã ký thuật mà là "lên một cái phòng cao" (câu 13)
Xin các bạn hãy giải thích tại sao lại có hai sự khác biệt này bởi cùng một trước giả là Lu-ca?
|
|
|
Post by SV. NGUYỄN VĂN TÂM on Oct 5, 2014 23:43:45 GMT -8
Chào GS!. Tôi xin được trình bày về hai đoạn Kinh Thánh GS vừa nêu trên như sau: 1/ Sách Lu-ca ký thuật: "xung quanh làng Bê-tha-ni" ; Sách Công Vụ ký thuật: từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem"(không phải Bê-tha-ni)(12); Cả hai sách Phúc Âm Lu-ca và CV , Trước giả đều gởi cho một người là “ Thê-ô-phi-lơ quí nhân” , Sách 1 và 2 bổ xung địa chỉ cho nhau, chúng ta có thể giải thích: “Lúc Chúa Giê-xu thăng thiên là ở xung quanh làng Bê-tha-ni, trên núi gọi là Ô-li-ve”. Trong sách Mac 11: 1 thì qua đường Giê-ri-cô đến làng Bê-pha-gê và làng Bê-tha-ni ở trên núi Ô-li-ve. Có thể trước giả Lu-ca muốn tránh nhầm tên với một địa danh khác là Bê-tha-ni mà Giăng 1: 28 đã chép, là nơi Giăng Báp tít làm phép Báp-têm; ở ngoài sông Giô-đanh vùng Ga-li-lê (Mat 3: 13). 2/ Sách Lu-ca : “Môn đồ thờ lạy Ngài rồi trở về thành Giê-ru-sa-lem, mừng rỡ lắm. Môn đồ cứ ở trong đền thờ luôn, ngợi khen Đức Chúa Trời.” - Sách CV: “Bấy giờ, các người đó từ núi gọi là Ô-li-ve trở về thành Giê-ru-sa-lem; núi ấy cách thành Giê-ru-sa-lem một quãng đường ước đi một ngày Sa-bát. Ước chừng một ki-lô-mét. Khi đã về đến, bèn lên một cái phòng cao kia, là nơi Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con của A-phê, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đe con của Gia-cơ thường ở. 14 Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đàn bà, và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Jêsus cùng anh em Ngài”. Chúng ta có thể giải thích như sau: - Sách Lu-ca (53): Môn đồ cứ ở trong đền thờ luôn: Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa đen, câu này có ý là: Suốt thời gian tiếp theo ngày Chúa Cứu Thế thăng thiên, các môn đồ trở về thành Giê-ru-sa-lem, thường họp mặt trong đền thờ (Cong 2:46 3:1 5:21,42). - Sách CV: Phòng cao kia, là nơi.. (13): Là nơi Chúa Cứu Thế Giê-Xu đã lập lễ Tiệc Thánh . Lu-ca 22: 12 “ Chủ nhà sẽ chỉ cho một cái phòng rộng và cao, đồ đạc sẳn sàng; các ngươi hãy dọn ở đó” (Mac 14: 15; Mat 26: 18). Trong thành Giê-ru-sa-lem có rất nhiều phòng để họ có thể nhóm lại. (Lu 2: 37) và thường cầu nguyện trong đền thờ như đã nêu ở trên. Tóm lại trong hai sách trước giả Lu-ca đã ký thuật lại rỏ việc Chúa thăng thiên và các môn đồ trong thời gian tiếp theo. Sách Cv đã giãi thích cho sách Phúc âm Lu-ca đễ chúng ta hình dung ra được từng chi tiết của sự việc thật rỏ ràng. Khi chúng ta đối chiếu hai phần kinh thánh trên có thể giải thích như sau: Lúc Chúa Giê-xu thăng thiên là ở xung quanh làng Bê-tha-ni, trên núi gọi là Ô-li-ve. Môn đồ thờ lạy Ngài rồi trở về thành Giê-ru-sa-lem, mừng rỡ lắm; bèn lên một cái phòng cao kia, là nơi Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ con của A-phê, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đe con của Gia-cơ thường ở; cũng là nơi Chúa Cứu Thế Giê-Xu đã lập lễ Tiệc Thánh (Lu-ca 22: 12; Mac 14: 15; Mat 26: 18). Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện với các người đàn bà, và Ma-ri là mẹ Đức Chúa Jêsus cùng anh em Ngài mà ngợi khen Đức Chúa Trời.
SV. Nguyễn Văn Tâm
|
|
|
Post by SV. VŨ THỊ CÚC on Nov 30, 2014 6:10:43 GMT -8
Kính chào quí Giáo sư và các anh chị em con dân Chúa! Tôi xin nhờ quí vị giải thích về Thánh linh. Phân đoạn kinh thánh {1Các Vua 18:46}"Tay Đức Giê Hô va giáng trên E li ;người thắt lưng ,chạy trước A háp cho đến khi tới Gít rê ên" và [E xÊ chi Ên 3:22}"tại đó tay Đức Giê hô va ở trên ta và Ngai phán cùng ta rang :Hãy chờ dậy,đi trong đồng bằng ,tại đó ta sẽ phán cùng ngươi.E xê chi ên 37:1Tay của Dức GIê Hô va đặt trên ta ;Ngài dắt ta ra trong Thần Dức Giê hô va,và đặt giữa trũng..." "NhƯng khi Dức Thánh linh giáng trên các con thì các con sẽ nhận lấy quyền phép và làm chứng về ta tại thành Giê ru sa lem ,cả sứ Giu đe ,sứ Sa ma ri ,cho đến cùng trái đất"{cong vu 1:8} Theo những đoạn kinh thánh trên có thể kết luận rang Thánh linh của Chúa là tay không? Rất mong được học hỏi quí vị. SV Vũ thị Cúc
|
|
|
Post by GS. Trần Thiên Hương on Dec 5, 2014 7:42:34 GMT -8
Chào GS Phạm Hùng và SV Nguyễn Văn Tâm Tôi xin góp ý về hai ký thuật về địa điểm Chúa Giê xu thăng thiên và hoạt động của các môn đồ. Nếu chúng ta mở bản đồ địa hình xứ Gia đê thì thành Giê ru sa lem cách núi ô li ve khoảng 1 km. Thật ra khoảng cách này là con đường băng ngang qua thung lủng giữa hai ngọn núi nằm gần kề nhau. Thành Giê ru sa lem nằm trên núi Si ôn cao khoảng 800 mét, còn núi Ô li ve thấp hơn đôi chút. Dưới chân núi ô li ve có làng Bê tha ni, và làng này nằm trên con đường đi lên thành Giê ru sa lem (và con đường này là con đường dốc, dài 1 km). Vì thế sách Lu ca và sách công vụ ký thuật địa điểm Chúa thăng thiên là gần làng Bê tha ni hay tại ngọn núi tên là Ô li ve đều chính xác như nhau. Về hoạt động của các môn đồ thì sách Lu ca ký thuật họ cứ ở trong đền thờ và ngợi khen Đức Chúa Trời. Đây là hoạt động "tôn giáo" của họ. Còn sách Công vụ ký thuật các môn đồ họp lại trên phòng cao để cầu nguyện. Đây là hoạt động "nội bộ" của họ. Sau khi họp nhau cầu nguyện thì các sứ đồ vào đền thờ... Vậy chúng ta thấy cả hai sách Lu ca và Công vụ đều ký thuật những hoạt động có thật của các sứ đồ tại thời điểm Chúa thăng thiên. Một sách ký thuật sự kiện "thờ phượng", còn một sách khác ký thuật sự kiện "nội bộ". Cả hai sách nhìn hai góc độ khác nhau nên ký thuật khác nhau, chứ không phải ký thuật mâu thuẩn nhau.
Thân ái góp ý TT Hương
|
|
|
Post by GS. Trần Thiên Hương on Dec 11, 2014 20:17:08 GMT -8
Kính chào quí Giáo sư và các anh chị em con dân Chúa! Tôi xin nhờ quí vị giải thích về Thánh linh. Phân đoạn kinh thánh {1Các Vua 18:46}"Tay Đức Giê Hô va giáng trên E li ;người thắt lưng ,chạy trước A háp cho đến khi tới Gít rê ên" và [E xÊ chi Ên 3:22}"tại đó tay Đức Giê hô va ở trên ta và Ngai phán cùng ta rang :Hãy chờ dậy,đi trong đồng bằng ,tại đó ta sẽ phán cùng ngươi.E xê chi ên 37:1Tay của Dức GIê Hô va đặt trên ta ;Ngài dắt ta ra trong Thần Dức Giê hô va,và đặt giữa trũng..." "NhƯng khi Dức Thánh linh giáng trên các con thì các con sẽ nhận lấy quyền phép và làm chứng về ta tại thành Giê ru sa lem ,cả sứ Giu đe ,sứ Sa ma ri ,cho đến cùng trái đất"{cong vu 1:8} Theo những đoạn kinh thánh trên có thể kết luận rang Thánh linh của Chúa là tay không? Rất mong được học hỏi quí vị. SV Vũ thị Cúc Chào cô Vũ Thị Cúc Tôi nhận thấy cô Cúc đang đặt câu hỏi khẩn cấp về Đức Thánh Linh, vì trong trang thơ của Trường cô có đăng bài thơ NGÀI LÀ AI để diễn tả cảm xúc "đầy dẫy thánh linh" trong cô. Tôi không đứng ở góc độ Thần Học để trả lời thắc mắc của cô. Tôi xuất phát từ những suy nghĩ của cô. Cô đang nghĩ rằng liệu có phải "tay Đức Giê Hô Va" là "Thánh Linh" không? Để giúp cô giải tỏa thắc mắc nầy, tôi xin thử nêu vài lý lẽ như sau: - Mọi người ai cũng suy nghĩ bằng "ngôn ngữ", tức là suy nghĩ bằng những "từ vựng". Mỗi từ có một nghĩa chánh. Mỗi từ mang một khái niệm, dù nó là danh từ hay động từ hay tính từ.v.v... đều mang một nghĩa thuộc về khái niệm nào đó. Cô Cúc đang suy nghĩ rằng : "tay Đức Giê Hô Va" cũng là quyền năng của Đức Giê Hô Va được thi thố trên Y sơ ra ên. Và rồi Đức Thánh Linh cũng được mọi người ngày nay kinh nghiệm như là "quyền năng" của Chúa đến với Việt Nam để "làm cho vững đạo". Vậy câu hỏi cũng tự nhiên đến với cô Cúc : Liệu "Tay..." có phải là "Thánh Linh..." ? Hay nói cho đầy đủ hơn là : Quyền năng của Đức Giê Hô Va ngày xưa có phải là Đức Thánh Linh ngày nay không? Cô Cúc tự trả lời xem: Tay có phải là chân không? Đương nhiên cô có câu trả lời rồi. - Vấn đề cô hỏi không phải là tay bình thường mà thật ra đó là từ ngữ của Kinh Thánh dùng để diễn đạt một quyền năng của Đức Chúa Trời mà người Y sơ ra ên kinh nghiệm được rất cụ thể. Họ cảm nhận được sự can thiệp của Đức Chúa Trời trên quốc gia họ, trên dân tộc họ, trên dòng lịch sử của họ, và còn nhiều nữa. Chính vì thế Kinh Thánh diễn tả quyền năng đó là "Thần của Đức giê Hô Va" và cũng dùng từ rất cụ thể là "Tay" để cho dễ truyền thông. Như vậy vấn đề cô đang suy nghĩ là "quyền năng của Đức Giê Hô Va" ngày xưa có phải là "Đức Thánh Linh" ngày nay không? Cô Cúc không hỏi về "tay", đúng không? Nếu đúng thì câu hỏi của cô là hỏi về sự tương đồng giữa Cựu Ước với Tân Ước, đúng không? Xin cô Cúc cho biết ý kiến của cô về cách đặt vấn đề lại của tôi có trúng với ý của cô không?
- Để giải đáp thắc mắc của cô, ở đây, tôi tạm thời chỉ nói vắn tắt rằng Đức Thánh Linh chỉ được ban cho kể từ sau khi Chúa Giê xu thăng thiên về với Cha Ngài. Nếu ngày nay chúng ta kinh nghiệm về Đức Thánh Linh thì luôn luôn liên quan trực tiếp với Chúa Giê xu hay với Hội Thánh của Ngài. Còn người Y sơ ra ên ngày xưa thì họ hiểu rất rõ về "Thần của Đức Giê Hô Va" chứ không hiểu là "Đức Thánh Linh" (Holly Spirit) như cách chúng ta hiểu ngày nay.
Cầu Chúa ban ơn trên cô TT Hương
|
|
|
Post by SV. VŨ THỊ CÚC on Dec 22, 2014 7:44:00 GMT -8
Chào cô Vũ Thị Cúc Tôi nhận thấy cô Cúc đang đặt câu hỏi khẩn cấp về Đức Thánh Linh, vì trong trang thơ của Trường cô có đăng bài thơ NGÀI LÀ AI để diễn tả cảm xúc "đầy dẫy thánh linh" trong cô. Tôi không đứng ở góc độ Thần Học để trả lời thắc mắc của cô. Tôi xuất phát từ những suy nghĩ của cô. Cô đang nghĩ rằng liệu có phải "tay Đức Giê Hô Va" là "Thánh Linh" không? Để giúp cô giải tỏa thắc mắc nầy, tôi xin thử nêu vài lý lẽ như sau: - Mọi người ai cũng suy nghĩ bằng "ngôn ngữ", tức là suy nghĩ bằng những "từ vựng". Mỗi từ có một nghĩa chánh. Mỗi từ mang một khái niệm, dù nó là danh từ hay động từ hay tính từ.v.v... đều mang một nghĩa thuộc về khái niệm nào đó. Cô Cúc đang suy nghĩ rằng : "tay Đức Giê Hô Va" cũng là quyền năng của Đức Giê Hô Va được thi thố trên Y sơ ra ên. Và rồi Đức Thánh Linh cũng được mọi người ngày nay kinh nghiệm như là "quyền năng" của Chúa đến với Việt Nam để "làm cho vững đạo". Vậy câu hỏi cũng tự nhiên đến với cô Cúc : Liệu "Tay..." có phải là "Thánh Linh..." ? Hay nói cho đầy đủ hơn là : Quyền năng của Đức Giê Hô Va ngày xưa có phải là Đức Thánh Linh ngày nay không? Cô Cúc tự trả lời xem: Tay có phải là chân không? Đương nhiên cô có câu trả lời rồi. - Vấn đề cô hỏi không phải là tay bình thường mà thật ra đó là từ ngữ của Kinh Thánh dùng để diễn đạt một quyền năng của Đức Chúa Trời mà người Y sơ ra ên kinh nghiệm được rất cụ thể. Họ cảm nhận được sự can thiệp của Đức Chúa Trời trên quốc gia họ, trên dân tộc họ, trên dòng lịch sử của họ, và còn nhiều nữa. Chính vì thế Kinh Thánh diễn tả quyền năng đó là "Thần của Đức giê Hô Va" và cũng dùng từ rất cụ thể là "Tay" để cho dễ truyền thông. Như vậy vấn đề cô đang suy nghĩ là "quyền năng của Đức Giê Hô Va" ngày xưa có phải là "Đức Thánh Linh" ngày nay không? Cô Cúc không hỏi về "tay", đúng không? Nếu đúng thì câu hỏi của cô là hỏi về sự tương đồng giữa Cựu Ước với Tân Ước, đúng không? Xin cô Cúc cho biết ý kiến của cô về cách đặt vấn đề lại của tôi có trúng với ý của cô không?
- Để giải đáp thắc mắc của cô, ở đây, tôi tạm thời chỉ nói vắn tắt rằng Đức Thánh Linh chỉ được ban cho kể từ sau khi Chúa Giê xu thăng thiên về với Cha Ngài. Nếu ngày nay chúng ta kinh nghiệm về Đức Thánh Linh thì luôn luôn liên quan trực tiếp với Chúa Giê xu hay với Hội Thánh của Ngài. Còn người Y sơ ra ên ngày xưa thì họ hiểu rất rõ về "Thần của Đức Giê Hô Va" chứ không hiểu là "Đức Thánh Linh" (Holly Spirit) như cách chúng ta hiểu ngày nay.
Cầu Chúa ban ơn trên cô TT HươngCảm ơn Chúa cảm ơn Gíao sư Trần Thiên Hương đã chia sẻ lời Chúa qua bài viết của emVề Thần của Đức CHúa Trời ở Cựu ước hay Thánh linh ở Tân ước thì em vẫn nghĩ là một.Song em đọc trong Kinh thánh có rất nhiều đoạn nói về "Tay Của Đức Chúa Trời" cho nên em muốn hỏi các GS và các Thày cô,vì em chưa được hiểu về lời Chúa nhiều.sách Ê sê chi ên 3:22"Tại đó ,tay Đức Giê hô va ở trên ta,và Ngài phán cùng ta ...';37:1:"Tay của Đức Giê hô va đặt trên ta; Ngài dắt ta trên Thần Đác Giê hô va..."; 33 :22 :" Vả ,buổi chiều trước khi người đi chốn ấy chưa đến ,thì Tay Đức Giê hô va ở trên ta;và Ngài mở miệng ta cho đến khi sớm mai người ấy đến cùng ta;thì miệng ta đã được mở ta không câm nữa" .{Các vua 18;46}.Ở đây cho ta thấy khi "Tay" của Chúa động vào thì có được năng quyền,vậy chúng ta có thể tham khảo sách công vụ các sứ đồ 1:8:"Nhưng khi Đức Thánh linh giáng trên các ngươi ,thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép...".Như vậy chúng ta có thể nói rằng "Tay","Thánh linh "hay "Thần" của ĐỨC Chúa trời đều là một.Nguyện xin Chúa thêm phước trên chức vụ của GS .sv Vũ thị Cúc.
|
|
|
Post by GS. Trần Thiên Hương on Dec 28, 2014 16:24:17 GMT -8
Chào cô Vũ Thị Cúc
Cô cho rằng "Tay", "Thánh linh", "Thần Đức Giê hô va" là một. Tôi không nghĩ như vậy: Nếu xét ở nguyên văn thì 3 từ này khác nhau. Mà đã là khác nhau thì chúng không phải là một. Ở đây, 3 khái niệm này không phải là đồng nhất về bản chất. "Tay" là một từ ẩn dụ để ám chỉ một "quyền năng" đến từ Chúa. Còn "Đức Thánh linh" là Chúa Ngôi Hai, Ngài có quyền năng. Còn "Thần Đức Gê hô va" là một "sứ giả" đặc biệt của Chúa, "sứ giả" này cũng mang theo quyền năng có giới hạn trong phạm vi nào đó. Nếu cô Cúc hiểu "Tay" là "Đức Thánh Linh" thì cô vô tình hạ thấp Đức Chúa Trời Ngôi Hai xuống thành một "quyền năng" vô nhân cách, không thân vị (impersonal). Còn "Thần Đức Giê hô va" thì không thể đồng nhất với "Đức Thánh Linh", vì chỉ đến thời đại Tân Ước, Đức Chúa Giê xu mới xin Cha Ngài ban Đức Thánh Linh xuống.
Tôi cảm thấy cô Cúc dựa vào nét nghĩa "quyền năng" có trong ba khái niệm trên để đồng nhất hóa chúng. Nếu cô có thể vẽ 3 vòng tròn giao nhau thì phần giao đó là "quyền năng" còn các phần không giao nhau là 3 bản chất khác nhau. Cầu Chúa Thánh Linh soi sáng cho cô TT Hương
Tái bút: Sau nầy, khi nhà trường BSFVN có mở lớp Tiếng Việt Thực Hành thì mời cô ghi danh nhé. Tôi sẽ có dịp giải thích nhiều hơn về từ ngữ, chữ và nghĩa. TT Hương
|
|
|
Post by SV. VŨ THỊ CÚC on Jan 8, 2015 20:00:13 GMT -8
Chào cô Vũ Thị Cúc
Cô cho rằng "Tay", "Thánh linh", "Thần Đức Giê hô va" là một. Tôi không nghĩ như vậy: Nếu xét ở nguyên văn thì 3 từ này khác nhau. Mà đã là khác nhau thì chúng không phải là một. Ở đây, 3 khái niệm này không phải là đồng nhất về bản chất. "Tay" là một từ ẩn dụ để ám chỉ một "quyền năng" đến từ Chúa. Còn "Đức Thánh linh" là Chúa Ngôi Hai, Ngài có quyền năng. Còn "Thần Đức Gê hô va" là một "sứ giả" đặc biệt của Chúa, "sứ giả" này cũng mang theo quyền năng có giới hạn trong phạm vi nào đó. Nếu cô Cúc hiểu "Tay" là "Đức Thánh Linh" thì cô vô tình hạ thấp Đức Chúa Trời Ngôi Hai xuống thành một "quyền năng" vô nhân cách, không thân vị (impersonal). Còn "Thần Đức Giê hô va" thì không thể đồng nhất với "Đức Thánh Linh", vì chỉ đến thời đại Tân Ước, Đức Chúa Giê xu mới xin Cha Ngài ban Đức Thánh Linh xuống.
Tôi cảm thấy cô Cúc dựa vào nét nghĩa "quyền năng" có trong ba khái niệm trên để đồng nhất hóa chúng. Nếu cô có thể vẽ 3 vòng tròn giao nhau thì phần giao đó là "quyền năng" còn các phần không giao nhau là 3 bản chất khác nhau. Cầu Chúa Thánh Linh soi sáng cho cô TT Hương
Tái bút: Sau nầy, khi nhà trường BSFVN có mở lớp Tiếng Việt Thực Hành thì mời cô ghi danh nhé. Tôi sẽ có dịp giải thích nhiều hơn về từ ngữ, chữ và nghĩa. TT Hương Thưa giáo sư Thiên Hương!
Em thầy mọi người nói " Đức Thánh Linh " ngôi ba, chứ chưa thấy ai nói là ngôi hai, chỉ nói "Chúa Giê xu" là "ngôi hai giáng thế". Cảm ơn Giao sư nhiều ,em sẽ cố gắng học hỏi thêm nhiều hơn nữa, Chúa ban phước cho Giao sư
Sv Vũ thị Cúc
|
|
|
Post by SV. VŨ THỊ CÚC on May 31, 2015 20:20:45 GMT -8
Kính chào quí giáo sư và toàn thể các thầy cô trong trường! Em đọc thông tin trên FB và đi dự nhóm ở một nhà thờ Đài loan, em nghe người ta nói rằng: "Đức Chúa Trời là cơm áo của tôi..." Em chỉ nghe và đọc Kinh thánh nói : " Đức Chúa Trời là cái khiên, là nơi nương náu, là sức lực, là đồn lũy, là Cứu Chúa của tôi..." Em cứ phân vân rằng: "Đức Chúa Trời là cơm áo", như vậy có được không ạ? Kính mong được học hỏi nơi quí Giáo sư và các thầy cô. Nguyện Chúa ban phước cho quí vị. SV: Vũ Thị Cúc
|
|
Deleted
Deleted Member
Posts: 0
|
Post by Deleted on Jul 16, 2016 11:00:57 GMT -8
Suy tư về câu nói của Chúa Jesus: "Hãy trả cho Sê-sa những gì thuộc về Sê-sa; Hãy trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời" (Mathiơ 22:21).
----------------- Đồng bằng sông Cửu Long ngập mặn; mùa mưa lũ quét ngập trắng bờ, mùa nắng khô hạn khiến đất nứt sâu, không còn canh tác gì được nữa; Người dân các tỉnh miền Tây không chỉ mất mùa, mất những vụ nuôi trồng thuỷ sản; mà thật sự là họ đã mất luôn những chén cơm, manh áo!
Biển ở bốn tỉnh miền Trung bị nhiễm độc, tôm cá phơi xác chết đầy bờ, ngư dân miền này phần thì không thể ra đánh bắt, phần thì bắt được cá tôm về cũng chẳng ai dám mua! Cái đói, cái khổ đã vào trong cửa!
Những ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ thì thường bị các "tàu lạ" đánh đuổi, có khi bị đốt cả tàu khiến họ đối mặt với sống chết trong gang tất!
Những thành phố lớn trong nước thì đầy dẫy nạn bắt cóc tống tiền, nạn trộm cướp, bất an. Họ giết người như chơi, giết người nhiều khi cũng chằng phải vì cướp của mà chỉ vì một cơn giận! Có khi họ chẳng những giết một người, mà là cả một gia đình!
Bức tranh ảm đạm trên quê hương mình là vậy; tôi không tự vẻ nó cho thật ảm đạm làm gì(?) tôi chỉ muốn khắc hoạ (kể) lại để tìm xem những mãng tối này do đâu mà có?; để mong tìm nguyên nhân sâu xa, hay là bản chất của vấn đề nằm ở chổ nào? Trong cái nhìn của một Cơ Đốc Nhân biết đau đáu với những thương tổn đang xảy ra cho nước Việt mình! Như nhà thần học Karl Barth nói: "Lòng thương xót của Chúa nằm trong sự sẳn sàng chia sẻ và đồng cảm với nỗi đau khổ của người khác và sẳn sàng chủ động cất đi nỗi đau này". 'Chủ động cất đi nỗi đau' chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta biết 'nó đau' vì nguyên nhân gì?. Tôi tự hỏi, tại sao Chúa Jesus lại dạy trong Mathiơ 22:21 rằng: "hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời"?. Nếu như con người lấy hết của cả Sê-sa lẫn của Đức Chúa Trời, thì sao? Hoặc giả con người không trả đúng cho Sê-sa những gì của Sê-sa và không trả đúng những gì của Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Trời, thì sao?
À! Dường như vấn đề là ở chổ này (?). Khi con người không trả đúng hoặc lấy hết cả những gì của Sê-sa và của Đức Chúa Trời thì chắc tai hoạ ắt đến; Vì nhiều lần, nhiều chổ Kinh thánh cho chúng ta biết việc "lấy sai chổ, lấy sai của" là bị trừng phạt (?). Với nước mình nói riêng và thế giới ngày nay nói chung, có vẻ như có quá nhiều nơi đang bên bờ vực khủng hoảng về nhiều mặt, vì con người đã không "trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời" .
Dù trong hoàn cảnh câu nói của Chúa Jesus nói ra khi Ngài cầm đồng tiền một Đơ-ni-ê có hình Sê-sa để trả lời cho những người bắt lẽ Ngài, nhưng đó không chỉ là nói về đồng tiền có hình Sê-sa thì trả cho Sê-sa, nhưng Ngài mượn hình ảnh của Sê-sa trên đồng tiền mà dạy cho nhân loại những bài học:
I. Bài học về "TRẢ SÊ-SA VẬT GÌ CỦA SÊ-SA".
Vậy những gì là của Sê-sa?
Các chính phủ, đại diện là "Sê-sa", đúc hoặc in tiền và giúp định giá trị của nó. Vì thế, theo quan điểm của Đức Chúa Trời, họ được quyền yêu cầu hoàn lại qua việc thu thuế.
1. Đóng thuế.
Nhiều người từ chối hoặc không thích đóng thuế vì họ quan niệm việc đóng thuế nhiều khi là lãng phí, nhất là cho một đội ngủ cầm quyền thiếu năng lực, như những nhà cầm quyền hung hăng, tham ô và lừa bịp. Số khác từ chối nộp thuế vì cho rằng nó được dùng vào những việc trái đạo đức, mua vũ khí, gây chiến tranh và chết chóc. Giải thích lý do không nộp thuế, người dân một thị trấn vùng Trung Đông cho biết: "Chúng tôi sẽ không cấp tiền để mua đạn giết chính con mình". Triết gia Henry David Thoreau quan niệm không nộp thuế dùng cho chiến tranh vì ông xem điều này trái đạo đức; Ông lý luận: "Có thể nào nhà lập pháp có quyền hơn lương tâm, dù trong giây lát hay trong việc nhỏ nhất? Nếu thế, con người có lương tâm để làm gì?". Như Kinh thánh đã nói rõ ràng là họ phải giữ "lương tâm thanh sạch" trong mọi việc (2Ti-mô-thê 1:3). Nhưng Kinh thánh cũng cho biết chính phủ có quyền thu thuế và mọi người phải vâng phục các đấng cầm quyền trên mình (Rô-ma 13:5-7). ĐÓ CHÍNH LÀ "TRẢ SÊ-SA VẬT GÌ (TIỀN THUẾ) CỦA SÊ-SA".
Bên cạnh trách nhiệm đóng thuế của người dân; Các chính phủ, là những nhà cầm quyền phải có trách nhiệm lãnh đạo, định hướng các mặt như giáo dục, kinh tế, chính trị, xã hội, môi sinh theo cách đúng đắn…để người dân được bảo vệ và được hưởng quyền sống chính đáng. Nhưng nếu như chính phủ đi lệch hướng mà đàn áp người dân, ăn của dân, tham nhũng, huỷ phá môi trường…, thì trong quan điểm của Đức Chúa Trời, Ngài cho biết dân chỉ "sợ kẻ mình đáng sợ; kính kẻ mình đáng kính" (Rô-ma 13:7b). Còn như ngược lại, "không đáng sợ và không đáng kính" thì mình phải lên tiếng đáp trả đòi công bằng cho những điều sai trái đó.
2. Lên tiếng – đáp trả những sai trái của Sê-sa.
Nếu như chính quyền có những bất công và cách trị dân cực đoan thì người dân phải lên tiếng. Không chỉ là tiếng nói từ lương tri như những người dân có trách nhiệm với quê hương, đất nước; mà còn là tiếng nói thẳng thắng mạnh mẽ từ sự vâng phục Đức Chúa Trời thể hiện cụ thể là đòi quyền tự do nhân quyền và bình đẳng vì trước mặt Đức Chúa Trời, con người là thọ tạo của Ngài, mọi người đều được nhận tình yêu, sự quan phòng của Ngài; mọi người đều được quyền sống vui hưởng và tự do trong ân điển của Ngài. Sự đấu tranh đòi quyền tự do, bình đẳng và dân chủ là điều quan trọng trong công lý của Đức Chúa Trời: "hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời; bởi vì Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác" (Mat 5:45); nên nếu chính quyền bạo ngược thì trách nhiệm lên tiếng, phản kháng và binh vực dân oan phải thuộc về những Cơ Đốc Nhân trước hết; bởi vì Cơ Đốc Nhân là những người biết Lời Chúa và vâng theo. Vì Ngài – "Đức Giê-hô-va sẽ làm nơi náu ẩn cao cho kẻ bị hà hiếp; Một nơi náu ẩn cao trong thì gian truân" (Thi 9:10). Và như chính Chúa Jesus đã làm gương khi Ngài bước vào chức vụ, việc Ngài tập trung làm; là giảng về Nước Đức Chúa Trời và thực thi công lý của Đức Chúa Trời; là "rao cho kẻ bị cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do; và để đồn ra năm lành của Chúa" (Lu-ca 4: 18-19). Chúa Jesus cho chúng ta thấy mạng sống và sự thờ phượng của chúng ta, thì không chính phủ nào đòi hỏi được. Khi luật pháp hay quy định của loài người đi ngược lại với luật pháp của Đức Chúa Trời, thì Cơ Đốc nhân "thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta" (Công-vụ 5:29).
Vì vậy, việc lên tiếng phản kháng trước những bất công xã hội, binh vực cho những người đấu tranh cho công lý, giải phóng những người bị cầm tù oan sai, hay kêu đòi quyền lợi cho dân nghèo, cơ cực… ĐÓ CHÍNH LÀ "TRẢ SÊ-SA VẬT GÌ (SỰ ÁP BỨC) CỦA SÊ-SA".
Lên tiếng phản đối những sai trái trong xã hội; tìm lại sự tốt đẹp, lương thiện như vốn dĩ đã được định theo ý định tốt lành ban đầu của Đức Chúa Trời khi Ngài tạo dựng và cứu chuộc muôn vật; Đó cũng chính là "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI".
II. Bài học về "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI".
Theo nhà thần học K.H,Ting cho biết: "Cả vũ trụ đều thuộc về công trình cứu chuộc của Chúa Cứu Thế, chứ không chỉ có cộng đồng Cơ Đốc mà thôi"; Vậy nên, khi con người quay lưng lại với Đức Chúa Trời – Đấng tạo hoá muôn loài, thì những gian ác và tai ương xảy đến là điều hiển nhiên. "Trả cho Đức Chúa Trời những gì của Đức Chúa Trời" cũng đồng nghĩa việc phải thực thi, khôi phục ba mối tương quan sau:
1. Mối tương quan giữa con người với Đấng Tạo Hoá mình – Tìm kiếm sự thờ phượng thật.
Ngày nay, tương quan đức tin của con người với Đức Chúa Trời đang bị khủng hoảng nghiêm trọng(?). Chính việc bị khủng hoảng niềm tin biểu hiện qua thái độ vô tín, vô thần, hoặc thái độ dửng dưng, vô cảm đối với những nhu cầu luân lý và tôn giáo của con người. Tức là dửng dưng đối với những giá trị vượt trên vật chất, để rồi con người chạy theo một lối sống hưởng thụ của cải vật chất và khoái lạc; Đức Giáo Hoàng John Phao-lô II nói: "Khi con người quay lưng lại với kế hoạch của Đấng tạo hoá, con người gây ra một sự rối loạn và sự rối loạn này dẫn đến những hậu quả nơi nhân loại". Khủng hoảng những giá trị thiêng liêng; văn hoá hiện nay là quá thiên về vật chất và đã dửng dưng bỏ quên chiều kích thiêng liêng của đời sống tâm linh. Khi niềm tin sa sút thì lòng đạo đức yếu kém, rồi bị lôi cuốn sống theo bản năng, dẫn đến lòng tham, gian ác và huỷ diệt.
Khủng hoảng niềm tin, khủng hoảng những giá trị thiêng liêng, vì sự dư thừa vật chất đưa con người đến văn hoá con người trở nên duy vật chất và khoái lạc, sự nghèo khó tinh thần không còn được đánh giá cao, họ dành cho những vật thụ tạo một vị trí quan trọng tuyệt đối và tương đối hoá Đức Chúa Trời. Thái độ này cho thấy sự trống rỗng thiêng liêng và khủng hoảng niềm tin của họ.
Vậy chúng ta phải nhìn lại lối sống và đời sống của mình. Phải chăng chúng ta cũng đang sống trong thái độ vô tín, dường như không có Đức Chúa Trời trong đời sống của mình hay sự trông cậy từ Ngài, việc tôn thờ nơi Chúa là Đức Chúa Trời bị đưa xuống hàng thứ yếu để rồi chạy theo của cải vật chất và khoái lạc.
Theo đức tin Cơ Đốc, đâu là giá trị cao quý đích thực mà chúng ta phải kiếm tìm. Phải quay về thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời sáng tạo và cứu chuộc; trả lại quyền điều hành vũ trụ cho Ngài, quyền kiểm soát cho Ngài và tôn cao một mình Ngài. ĐÓ LÀ TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ (QUYỀN ĐƯỢC THỜ PHƯỢNG DUY NHẤT) CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
2. Mối tương quan giữa con người với vũ trụ tự nhiên - Xây dựng lại môi trường sống tốt đẹp.
Kinh Thánh cho biết Chúa sáng tạo vũ trụ muôn loài. Ngài là chủ thể, tạo dựng muôn loài vạn vật, và Ngài thấy chúng "tốt đẹp". Chúa khẳng định công trình tạo dựng này là rất tốt đẹp, và Ngài trao cho con người cai quản để làm cho vũ trụ này ngày càng tốt đẹp hơn (STK 1:28).
Thay vì cùng với Đức Chúa Trời để thực hiện công trình sáng tạo của Ngài, để làm cho vũ trụ ngày càng tốt đẹp hơn thì con người đã phá huỷ.
Khi tạo dựng A-đam và Ê va để hai ông bà "trồng tỉa, chăm sóc và giữ vườn". Đó là trách nhiệm của con người đối với vũ trụ và các loài thọ tạo khác; làm chủ theo nghĩa bảo vệ, chăm sóc và phát triển. Chứ không phải làm chủ là khai thác một cách triệt để, để hoang hoá nó, làm cho nó cạn kiệt và chết chóc.
Trong tương quan với Đức Chúa Trời, thì vũ trụ muôn loài bình đẳng với con người; tất cả đều là thọ tạo của Ngài; chỉ khác nhau ở chổ là con người được Chúa ban cho có linh hồn, có trí khôn và được cùng Chúa cai quản. Nghĩa là mọi loài thọ tạo phải được sinh trưỡng, dưỡng nuôi mà con người không được cướp đoạt chủ thể tính đó của vạn vật.
Vũ trụ theo chủ thể tính của vạn vật, phải được hình thành, phát triển và sinh sản cách tự nhiên theo đúng tiến trình tạo dựng của Đức Chúa Trời; Thay vì tôn trọng và bảo vệ, theo ý Chúa thì con người đã can thiệp vào vũ trụ vạn vật, cho mình cái quyền nghiên cứu thái quá để rồi đi ngược lại sự sinh trưởng tự nhiên của muôn loài; dùng các sản phẩm sinh hoá độc hại để gây hại cho con người và làm ô nhiễm môi trường sống; Biết bao sản phẩm độc hại đầy khắp mọi nơi là do chính lòng tham và sự phá hoại của con người mà ra.
Những thảm trạng thuỷ điện, phá rừng, uống nắn dòng sông, khai thác khoán sản tài nguyên đến cạn kiệt, thì hậu quả là biến đổi khí hậu toàn cầu. Và ngày nay VN chúng ta là một trong những nước bị ảnh hưởng đó.
Mỗi loài thọ tạo có sự thiện và toàn vẹn riêng của nó phản ánh sự khôn ngoan, quyền năng và vinh quang của Chúa, chứ không phải là công trình để thể hiện riêng tài năng của con người; Cho nên con người không có quyền tác động để biến đổi thụ tạo tự nhiên đi chệch đường lối của Đức Chúa Trời; Đi chệch quy luật tự nhiên nghĩa là chúng ta đang phá vỡ vũ trụ mà chính Chúa đã gầy dựng.
Trong kế hoạch yêu thương của Đức Chúa Trời; Mỗi tạo vật có giá trị và ý nghĩa riêng, sự thích hợp riêng, ý chỉ riêng mà Chúa đã đặt để trong sự hài hoà như các nhà chuyên môn đưa ra thuật ngữ "Cân bằng sinh thái".
Trong ý định yêu thương của Chúa thì sự tiến triễn mỗi loài phát triển trong sự hài hoà, trong sự thích nghi và phong phú để cùng tồn tại, cùng vui hưởng sự sống tốt đẹp. Nhưng con người, thay vì tôn trọng chủ thể tính của thụ tạo, chúng ta biến nó thành nô lệ rồi khai thác cạn kiệt môi trường.
Không chỉ trong Cựu Ước cho chúng ta thấy Chúa là Đấng sáng tạo mà trong Tân ước Chúa Jesus đến không chỉ cứu chuộc con người mà Ngài cứu chuộc muôn loài (Bắt muôn vật quy phục dưới chân Ngài) rồi Ngài giao công trình mà Ngài đã cứu chuộc đó lại cho Chúa Cha. Ý định của Đức Chúa Trời trong công trình sáng tạo cũng như trong công trình cứu chuộc của Ngài; Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài nơi vũ trụ vạn vật; Cho nên, nếu không sống hài hoà nghĩa là không tuân thủ ý định của Chúa khi sáng tạo và cứu chuộc, thì nghĩa là con người trở thành tác nhân phá huỷ công trình sáng tạo của Chúa – Đấng tạo hoá của mình. "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ (MÔI TRƯỜNG SỐNG CỦA THỤ TẠO) CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI" chính là tôn trọng vũ trụ, tôn trọng chủ thể tính để làm cho trái đất tốt đẹp hơn theo đúng ý định sáng tạo của Đức Chúa Trời trước khi không còn kịp nữa.
3. Mối tương quan giữa con người với nhau:
a. Binh vực những người cô thế, những người bị áp bức.
Trả cho họ (người cô thế, kẻ nghèo khổ, kẻ bị áp bức) tiếng nói tự do của chính họ; Nếu những người dân thuộc các tôn giáo khác, các nghề nghiệp khác, các vùng miền khác trong nước đã mạnh dạn đấu tranh cho công lý của Đức Chúa Trời (Công lý của Đức Chúa Trời vượt trên sự công bình của xã hội: Đó là, lòng thương xót mà Đức Chúa Trời dành cho nhân loại dù họ không xứng đáng; đó là binh vực kẻ mồ côi và người goá bụa; đó là cho kẻ đói ăn; đó là cho kẻ khát uống; đó là thăm viếng kẻ bị tù đày; đó là giúp đỡ người khác trong cơn khốn khó của họ; đó là theo đuổi, tìm kiếm và làm sự công bình...) trong thời gian qua đến nổi họ bị đánh đập trong các cuộc biểu tình; bị bắt giam trong các nhà tù, thì người Tin lành phải là những người đấu tranh trước hết cho công lý đó. Nhưng điều đáng buồn là tư tưởng "Tin lành không làm chính trị" đã cột trói các Cơ Đốc Nhân tại Việt nam trong khuôn viên của nhà thờ. Quả thật là các Cơ Đốc Nhân chưa chịu "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ (CÔNG LÝ CỦA NGÀI) CHO ĐỨC CHÚA TRỜI".
b. Nhận thức quyền ban sự sống là từ Đức Chúa Trời để mọi người đều được quyền ấy và phải bảo vệ nó.
Ngày nay, nhiều tổ chức, nhiều nhóm người nhân danh sự phát triển của nhân loại để phát triển theo ý muốn chiếm hữu vũ trụ cho riêng mình. Họ chiếm hữu theo nhóm, theo đảng phái và kết quả là mọi người phải gánh chịu.
Tình trạng biến đổi khi hậu ngày nay họ đang đỗ thừa cho nhau, tranh chấp nhau, gây chiến nhau vì tình trạng chiếm hữu vũ trụ, chiếm hữu biển cả cho riêng mình. Ví như ở Việt nam, họ nhân danh sự phát triển để chấp nhận khai thác Boxit Tây Nguyên làm cho môi trường bị phá huỷ, lợi nhuận đâu không thấy mà chỉ thấy báo cáo lỗ; chưa kể hậu quả ô nhiễm do bùn đỏ rất nặng nề treo lơ lững trên đầu dân. Nhân danh sự phát triển để phá rừng, khai thác bừa bãi, làm cho đồng bằng bị ngập mặn, biến đổi nguồn nước, dòng chảy bị ngăn lại khiến cho mùa mưa thì lũ quét, mùa khô thì hạn hán và cuối cùng đỗ mọi đau khổ, nghèo đói bần cùng, lên đầu dân. Cũng nhân danh sự phát triển kinh tế, mà cho phép Công ty gan thép Formosa hoạt động, để thải độc ra biển khiến biển nhiễm độc, hải sản chết, ngư dân đói khổ…
Như vậy, Đức Chúa Trời tạo dựng và ban tặng cho mọi người, nên mọi người có quyền hưởng dùng những gì mà trái đất, mà thụ tạo mang lại cho họ. Nhận thức cái quyền của mỗi người đang bị người khác (một nhóm lợi ích) tướt đoạt thì chúng ta phải đòi lại. Phải binh vực cho những người dân vô tội đang đói khổ mỗi ngày. ĐÓ CHÍNH LÀ "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ (QUYỀN BAN SỰ SỐNG) CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI".
c. Nói không với điều ác, không gây hại cho người!
"Hỡi người! Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; cái điều mà Đức Giê-hô-va đòi ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời ngươi sao?" (Mi-chê 6:8). Thế nhưng trong mối tương quan giữa người với người, thì ngày nay con người đã thực sự ác với nhau; họ dã tâm ngay cả với những người không có thù hằn hay quen biết, hoặc với cả những trẻ em còn thơ dại.
Chúng ta còn lạ gì những câu chuyện như trồng rau xịt thuốc trừ sâu quá nhiều; nuôi heo cho ăn thuốc siêu nạt (tạo nạt); chế biến thực phẩm cho thêm những chất tạo mùi, tạo vị; dùng hàng giả; mua bán sữa nhiễm độc; đồ chơi trẻ em nhiễm độc… Biết là độc hại nhưng vẫn nuôi, vẫn trồng, vẫn làm, vẫn bán cho người khác. Chỉ vì chút lợi riêng mình mà ác với nhau, ác với người khác; để gây đau đớn cho người khác, để tàn hại tự nhiên, để phá huỷ môi trường, để làm huỷ hại công trình sáng tạo và cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Những chuyện ác này chính là chuyện "ma quỷ hoá thế gian" mà nhà thần học Karl Barth đề cập: "chúng ta phải dự phần vào việc giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ vô nhân đạo, khỏi sự chịu khổ bấc công, và tham gia với Đức Chúa Trời trong việc 'giải trừ ma quỷ hoá' cho thế gian". ĐÓ CHÍNH LÀ "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ (SỰ THIỆN LÀNH MÀ NGÀI ĐÃ HƯỚNG DẪN) CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI".
Kết luận.
Con người dù là công trình đỉnh cao của vũ trụ, được Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài; được Chúa giao phó cai quản vũ trụ nhưng không phải vì thế mà con người được tự do can thiệp theo ý riêng để chiếm hữu vũ trụ hay lạm quyền làm chủ vũ trụ. Chính Chúa mới là chủ của vũ trụ này.
Con người phải "trả lại cho Sê-sa vật gì của Sê-sa"; Đó là phải có nghĩa vụ đóng thuế cho chính phủ; nhưng nếu chính phủ cai trị bằng việc đàn áp dân lành thì phải mạnh mẽ lên tiếng đáp trả chứ không nên dung túng cho bạo ngược; vì "im lặng chính là đồng loã với tội ác". Con người phải "trả lại cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời"; Đó là quyền được thờ phượng duy nhất dành cho Ngài; Đó là quyền ban sự sống và là chủ tể vạn vật của Ngài; Đó là sự thiện lành mà Ngài đã hướng dẫn; Đó là tình yêu mà Ngài đã dành cho thọ tạo của Ngài.
Khi không trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời thì con người tự đánh mất giá trị thiêng liêng, giá trị ưu tiên là thờ phượng Đấng tạo hoá, để đi vào chổ biến chất, tư dục và khoái lạc riêng, để tự cho mình là chủ sở hữu vạn vật, để tự do phát triển lệch lạc, để phá vỡ mối tương quan với nhau, để sinh ra hận thù, tranh chấp, ích kỷ và đầy tội lỗi thực hiện trên muôn loài thọ tạo; làm mất đi bản chất phong phú, thích nghi, tốt lành của muôn loài mà chính Đức Chúa Trời đã sáng tạo và cứu chuộc.
Khi không trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời thì hiễn nhiên là con người sẽ phải đối diện với biến đổi khí hậu toàn cầu, với dịch bệnh, với thiên tai và với cả chiến tranh hay những gì tồi tệ nhất.
Vì vậy mà việc đất ngập mặn, biển nhiểm độc, thực phẩm độc hại, gian ác, trộm cướp, giết người ở đất nước chúng ta trong thời gian qua mà người viết đã nêu ra trong phần nhập đề là tất yếu.
Muốn thay đổi những mản xám xịt, đen buồn trong bức tranh nêu trên, Cơ Đốc Nhân phải sống thiết thực bằng hành động, cùng chung tay mạnh mẽ lên tiếng chống lại những áp bức, bất công, tham nhũng...; có tiếng nói binh vực công bằng cho những nhà đấu tranh vì công lý của Đức Chúa Trời; Lên tiếng kêu đòi quyền được bảo vệ cho môi trường sống; Bảo vệ thiên nhiên; Giáo dục đến cùng ý thức cho mọi người biết về việc gian ác trong sử dụng các chất độc hại cũng như phân tích các hệ luỵ đi kèm để họ "nói không" với những cách làm ăn gian ác đó. Phải chung tay gìn giữ, bảo vệ sự sống tự nhiên, bảo vệ vũ trụ tự nhiên, làm cho vũ trụ ngày càng tốt đẹp hơn.
Đức Chúa Giêsu, Chúa chúng ta đã Nhập Thể và Nhập Thế, Ngài đã vào đời; chúng ta cũng được mời gọi để sẵn sàng nhập cuộc như Ngài. Cơ Đốc Nhân chúng ta hãy đến với những người khác, sẵn sàng giao lưu, đối thoại với họ; tạo nên những nhịp cầu rất cần thiết cho thế giới chúng ta hôm nay. Đó cũng chính là truyền giáo ngày nay vậy!
Chỉ khi chúng ta phải sống tương quan hài hoà với Chúa, với người khác, với vũ trụ tự nhiên, thì mới có khả năng bảo vệ, gìn giữ và tiến triển tốt lành. Đó chính là "TRẢ CHO ĐỨC CHÚA TRỜI VẬT GÌ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI". Tôi xin mượn lời bài hát thay cho lời kết:
"Hãy mở toan cách cửa tâm hồn Nhìn ra bốn phương trời thắm tươi ân tình Trồng một bông hoa cho trái đất thêm đẹp xinh Tặng nụ cười duyên cho thế giới thêm hoà bình".
-------------------------------------------
Viết: tháng 7 năm 2016.
|
|
|
Post by GH. Phạm Hùng on Jul 16, 2016 17:45:36 GMT -8
Academic Dean/G.H.
Cảm ơn Giáo sư Thanh Tâm về bài viết rất hay này! Khi xem xong bài viết của Giáo sư Thanh Tâm tôi như được "chuyển lửa" bởi quan điểm, khẩu khí, và cái tâm của Giáo sư Thanh Tâm đã thể hiện trong nội dung của bài viết. Tôi mong sao bài viết này có thể được phổ biến rộng rãi trong giới Cơ-đốc nhân chúng ta, để Cơ-đốc nhân có sự hiểu đúng và làm đúng trong vấn đề đối với dân tộc và đất nước. Rất mong Quý Giáo sư và Sinh viên hãy tiếp tục chia sẻ những cảm nghĩ của mình tại đây.
Thân mến!
|
|